Top 1 Số Phận Người Phụ Nữ Trong Xã Hội Phong Kiến

TOP 12 bài văn phân tích số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​qua nhân vật Vũ Nương, Thúy Kiều sẽ giúp các em cảm nhận sâu sắc hơn về những bất hạnh, đau đớn, ân hận mà họ phải chịu đựng.

Top 1 Số Phận Người Phụ Nữ Trong Xã Hội Phong Kiến
Số Phận Người Phụ Nữ Trong Xã Hội Phong Kiến

Dưới chế độ phong kiến ​​hà khắc, lạc hậu, người phụ nữ bị trói buộc trong sợi dây bất công vô hình, khiến họ phải chịu bất hạnh, đau khổ đến cùng cực. Vậy mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để học tốt Ngữ Văn 9 hơn nhé .

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​qua nhân vật Vũ Nương và Thúy Kiều

Nêu số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến

I. Giới thiệu

  • “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Dữ là hai tác phẩm khá thành công khi cùng viết về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
  • Qua hai tác phẩm đã học “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Dữ, chúng ta thấy rõ những nỗi khổ tâm mà người phụ nữ phải gánh chịu.

II. Thân thể

1. Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ

  • Vũ Nương là nạn nhân của chế độ phong kiến ​​đầy bất công đối với người phụ nữ.
  • Cuộc hôn nhân của Vũ Nương với Trương Sinh không bình đẳng (Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương làm vợ) – khoảng cách giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “vốn con nhà khó”. dựa vào”. nhà giàu”, cũng là lập trường để Trương Sinh đối xử vũ phu, thô bạo, gia trưởng với vợ.
  • Chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ mà Trương Sinh cả tin nên đã tùy tiện mắng mỏ, đuổi vợ đi không cho nàng thanh minh, Vũ Nương buộc phải tìm đến cái chết oan uổng để thanh minh cho mình.
  • Cái chết oan uổng của Vũ Nương không làm lương tâm Trương Sinh day dứt. Anh cũng không nhận bất kỳ sự lên án nào từ xã hội. Dẫu biết Vũ Nương bị oan ức, Trương Sinh cũng xem nhẹ vì chuyện đã rồi. Kẻ giết Vũ Nương tự nhận mình hoàn toàn vô tội.

2. Nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

  • Kiều nữ là nạn nhân của xã hội đen.
  • Vì tiền, những kẻ lầm đường gây ra cảnh ly tán, ly tán nhà họ Kiều:

Thật là một ngày kỳ lạ,

làm cho nó khốc liệt chỉ vì tiền

  • Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh, Kiều đã phải bán mình cho Mã Giám Sinh – một tên buôn người, trở thành món hàng để hắn cân đong, đo đếm, mặc cả…
  • Cũng vì đồng tiền, Mã Giám Sinh và Tú Bà đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng đau đớn, cay đắng suốt mười lăm năm lưu lạc, phải “hai lần gột rửa, gột rửa”. .

3. Điểm tương đồng giữa hai nhân vật

  • Họ đều là những người phụ nữ đẹp về mọi mặt nhưng bất hạnh.
  • Nạn nhân của xã hội phong kiến ​​với nhiều định kiến ​​hẹp hòi, bất công đối với người phụ nữ.
  • Những người phụ nữ như Vũ Nương, Thúy Kiều đều phải tìm đến cái chết để giải tỏa mọi ân oán, giải thoát cho cuộc đời đầy đau khổ, bất công.

4. Mở rộng vấn đề

  • Người phụ nữ trong hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện Kiều” hội tụ những vẻ đẹp đáng quý nhất và cũng đầy đau đớn, tủi nhục nhất của con người. Họ là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ.
  • Viết về phụ nữ, các nhà văn, nhà thơ đã đứng lên nhân sinh để bênh vực họ, đồng thời lên tiếng tố cáo gay gắt những thế lực vật chất đã gây ra đau khổ cho họ.
  • Liên hệ với cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội hiện đại.

III. Chấm dứt

  • Người đọc thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với những người phụ nữ bất hạnh và đấu tranh cho hạnh phúc của phụ nữ.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​qua nhân vật Vũ Nương và Thúy Kiều

Chế độ phong kiến ​​với những định kiến ​​lạc hậu, hà khắc đã trói buộc người phụ nữ trong sợi dây bất công vô hình. Tuy nhiên, bất chấp sự giằng xé đau đớn và đáng thương của sợi dây ấy, người phụ nữ vẫn luôn giữ cho mình vẻ đẹp và nét cao quý của riêng mình. Đồng cảm với số phận bất hạnh đó, nhiều nhà văn đã khai thác và lưu giữ hình tượng người phụ nữ tiêu biểu cho vẻ đẹp hoàn mỹ trong ngôn từ nghệ thuật.

Trong đó, “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ) và “Truyện Kiều” (Nguyễn Dữ) là hai tác phẩm tiêu biểu cùng tiếng kêu than cho thân phận người phụ nữ. Kiều và Vũ Nương tuy mỗi người có một hoàn cảnh riêng nhưng đều chung một nỗi đau và vẻ đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam bao đời nay.

“Chuyện người con gái Nam Xương” kể về cuộc đời và số phận đầy bi kịch của Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái tài sắc vẹn toàn. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, con một phú ông nhưng ít học, đa nghi, ghen tuông. Cuộc sống gia đình đang yên ấm thì Trương Sinh phải đi lính. Từ đó, bi kịch cuộc đời cô bắt đầu.

Chồng đi vắng được tròn một tuần, Vũ Nương sinh con trai, nàng một lòng nuôi nấng con, lo ma chay cho mẹ. Đồng thời, cô luôn chung thủy chờ đợi tin chồng trở về. Đêm đêm, để vơi đi nỗi nhớ chồng và an ủi các con mỗi khi nhớ cha, chị thường chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng đó là bố Đản.

Khi Trương Sinh trở về, nghe tiếng con trẻ, liền nghi vợ vô kỷ luật. Anh không bao giờ cho cô cơ hội giải thích, anh chỉ xúc phạm cô và đuổi cô đi. Vì quá tức giận, Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử. Một thời gian sau, biết được nỗi oan của vợ, Trương Sinh đã lập đàn để minh oan cho nàng. Nàng hiện ra giữa bến Hoàng Giang, thoắt ẩn thoắt hiện, rồi mất hút.

Truyện Kiều là câu chuyện xoay quanh cuộc đời đầy gian truân của Thúy Kiều. Kiều là con gái đầu trong một gia đình trung lưu lương thiện. Cô sống cùng bố mẹ và hai em trai, nổi tiếng tài sắc vẹn toàn. Trong một chuyến du xuân, Kiều gặp Kim Trọng và hai người yêu nhau, tự do đính hôn. Nhưng chuyện vui chưa kịp vui thì chuyện buồn đã ập đến. Khi Kim Trọng về chịu tang chú, nhà Kiều bị oan.

Vì cha và anh, Kiều phải bán mình cho bọn buôn người. Chúng đẩy nàng vào chốn lầu xanh, tuy may mắn được Thúc Sinh cứu nhưng nàng lại phải chịu sự hành hạ của người vợ cả là Hoạn Thư. Thúy Kiều phải nương nhờ cửa Phật, vô tình bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai khi sư Giác Duyên tiễn nàng đi Bạc Bà.

Lần này, Kiều gặp Từ Hải và được anh giúp trả thù. Hạnh phúc chưa kịp, tai họa lại ập đến. Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến cưỡng hiếp rồi ép gả nàng cho quan đất. Quá đau đớn, dằn vặt và ân hận, Kiều đã trầm mình xuống sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu lần thứ hai. Sau đó, cô quy y cửa Phật.

Nhắc lại, Kim sau khi trở về biết chuyện và dù đã kết hôn với Thúy Vân nhưng anh vẫn không thể buông bỏ mối tình sâu đậm với người yêu cũ. Cuối cùng, nhờ gặp được sư Giác Duyên, Kim Kiều đã gặp và đoàn tụ gia đình.

Nguyễn Du từng viết:

“Đau cho đàn bà

Chữ xui cũng là chữ thường”

Đó là tiếng thổn thức cho thân phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội đương thời mà Nguyễn Du xót thương cho họ. Dường như ông hiểu rất rõ nỗi khổ đau, bất lực của họ khi phải sống trong một xã hội băng hoại đầy rẫy những bất công, định kiến, tư tưởng trọng nam khinh nữ.

Phụ nữ đương thời ai cũng khiêm tốn, đảm đang nhưng không bao giờ giữ được hạnh phúc cho riêng mình. Ngay cả việc theo đuổi hạnh phúc dường như là một giấc mơ xa vời đối với họ. Họ mang thân phận của những người phụ nữ thấp hèn, tuy mỗi người có một cuộc đời riêng nhưng không ai thoát khỏi sức nặng của hai chữ “kiếp hồng trần”. Ta có thể thấy rõ điều đó qua nhân vật Vũ Nương và Thúy Kiều trong hai tác phẩm của hai tác giả lớn .

Những người phụ nữ xuất hiện trong văn học đều là những người đẹp, đẹp cả ngoại hình, nhân cách và nội tâm. Ở Vũ Nương, nàng có nét đẹp “nhu mì, dịu dàng và có tâm có chừng mực”, luôn biết cách dung hòa dù chồng có tính tình nóng nảy khi “giữ nề nếp, không bao giờ để xảy ra tình trạng vợ chồng bất hòa”. Cô ấy luôn một lòng vì gia đình, không bao giờ than thở hay cầu mong giàu sang phú quý.

Tô Thúy Kiều là người con gái tài sắc vẹn toàn. Khi gia đình gặp tai nạn, cô không ngại đối mặt với thị phi, với tương lai bất định phía trước để bán mình chuộc cha. Và rồi, nàng lỡ lời thề với Kim Trọng – người nàng yêu nhất. Dù cuộc đời có bao nhiêu biến cố, bao nhiêu thăng trầm, nàng vẫn cam chịu, vẫn lo cho Kim Trọng, cho gia đình mà không màng đến bản thân. Cô ấy có một tâm hồn trung thành và cao thượng.

Đó cũng là vẻ đẹp chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ là những người xinh đẹp tuyệt trần, dù cuộc đời có đẩy họ vào cảnh khốn cùng, họ vẫn luôn thủy chung, hiếu thảo với gia đình, mặc cho bản thân bị dày vò trong hố đen tuyệt vọng.

Họ xinh đẹp, đoan trang như vậy nhưng họ lại sống trong một xã hội quá thối nát với bộ máy quan liêu thối nát, với tư tưởng trọng nam khinh nữ lạc hậu. Càng đẹp họ càng phải chịu nhiều bất công “hồng nhan bạc phận”. Những tưởng Vũ Nương sẽ được đoàn tụ hạnh phúc nếu nàng luôn chu toàn mọi việc nhưng số phận nghiệt ngã lại trêu đùa nàng. Cho dù nàng chết oan uổng, cũng không thể nhớ thương, không thể thương tiếc. Đáp lại cô chỉ là sự hời hợt, vô tâm của người chồng. Và chính cái chết của nàng đã tố cáo xã hội phong kiến ​​lúc bấy giờ. Xã hội ấy đã đẩy người phụ nữ đến bước đường cùng, tạo cho họ thân phận thấp hèn và một cuộc đời đầy bi kịch.

Còn Thúy Kiều dường như có cuộc đời trôi nổi hơn Vũ Nương rất nhiều bởi những biến cố đã qua và những vết sẹo hằn sâu trong cuộc đời. Gia đình cô tan đàn xẻ nghé vì hám tiền. Vì thế, cô cũng phải bán mình chuộc cha, rồi trở thành món hàng không hơn không kém trong tay bọn buôn người. Đau đớn thay cho cô, một người con gái trong sáng, tài giỏi giờ chỉ là món đồ chơi của khách làng chơi. Không chỉ vậy, nàng còn phải sống cuộc đời trôi dạt, lưu lạc suốt mười lăm năm và bị giáng xuống đầu ngàn mối họa.

Vũ Nương và Thúy Kiều là những nhân vật tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ không có quyền, không có tự do, không có quyền được hạnh phúc – một quyền cơ bản nhất của con người. Họ bị đẩy xuống vực sâu bởi những hủ tục thối nát của xã hội phong kiến, phải chịu nhiều ân hận, đau đớn. Dù cam chịu hay vùng vẫy, họ cũng không bao giờ thoát khỏi nanh vuốt của xã hội thối nát đó. Nhưng sau tất cả, họ vẫn giữ được vẻ đẹp đáng quý của tâm hồn cao thượng.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Người mẫu 1

Văn học trung đại từ thế kỷ XVI trở đi có lẽ đã đánh dấu một xu hướng nhận thức mới trong tư tưởng của các nhà văn, nhà thơ và người đương thời về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. . Nguyễn Dữ và Nguyễn Du sống ở hai thời đại cách nhau gần 2 thế kỷ nhưng hai tác giả có một điểm giống nhau trong tác phẩm, đó là lòng thương cảm, đồng cảm với thân phận nhỏ bé. Sự non trẻ, yếu đuối của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ​​lạc hậu khiến họ phải chịu nhiều tổn thương, bất công dù bản thân họ có nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nhưng chúng ta có thể thấy rất rõ tư tưởng này qua các tác phẩm nổi tiếng như Chuyện người con gái Nam Xương (trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ) và đoạn trích Truyện Kiều (Nguyễn Dữ).

Trước tiên, nói về thân phận người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Trước hết phải nói đến những phẩm chất đáng quý của Vũ Nương, tuy là con gái nhà nghèo nhưng nàng là người con gái có nhan sắc xinh đẹp, nhân phẩm cao quý. Chính vì vậy mà Trương Sinh, con nhà giàu đã không màng môn đăng hộ đối mà bỏ ra trăm lạng bạc, sính lễ hậu hĩnh để rước nàng về làm vợ hiền. Chẳng bao lâu, chồng bà phải đi lính đi đánh giặc xa nhà, bỏ lại bà đang mang thai và mẹ chồng già yếu.Là người con gái đức hạnh, khi mẹ chồng lâm bệnh vì nhớ con, bà luôn chăm sóc bà tận tình như một người mẹ, đến khi bà mất cũng lo ma chay chu đáo, không việc gì không thể. đổ lỗi. Được chứ. Rồi sau đó, một mình chị một mình sinh con rồi nuôi nấng, hết lòng chăm sóc đứa con thơ dại, chung thủy chờ ngày chồng trở về đoàn tụ. Những tưởng người phụ nữ có tấm lòng hiếu thảo, yêu thương chồng con, có nhan sắc xinh đẹp như vậy chắc phải khổ đến ngày sau. Nhưng không, Vũ Nương khi ở nhà chồng, dù đã hết sức làm tròn bổn phận, nàng vẫn phải dè chừng vì sợ chồng ghen.Cho đến khi đợi chồng về, vì một câu nói dại dột của đứa con trai ba tuổi, cô đã vu oan cho chồng là người không có đạo đức. Cuối cùng vì giải thích trăm điều mà không được chồng tin tưởng, Vũ Nương vì tủi nhục, vì cùng đường đành chọn giải pháp tự sát để minh oan cho bản thân. Có thể nói, tư tưởng trọng nam khinh nữ và việc người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ​​không có tiếng nói, không được bênh vực, phải phụ thuộc vào gia đình nam nhi đã khiến họ dễ rơi vào bế tắc, chịu nhiều thiệt thòi.Nguyễn Du vì thấu hiểu và cảm thông cho số phận của người phụ nữ nên đã cho Vũ Nương một cái kết bớt oan uổng hơn, đó là để nàng sống trong chốn thủy cung với cuộc đời thực. Nhưng nếu nghĩ cho kỹ thì đó vẫn là một cái kết không trọn vẹn, bởi dù được sống lại và minh oan, Vũ Nương vẫn không thể đoàn tụ với chồng con, mãi mãi chịu cảnh cô đơn dưới đáy vực. quốc gia. Tóm lại, dù thế nào thì bản thân Vũ Nương vẫn là người chịu nhiều mất mát, đau khổ nhất, câu chuyện là minh chứng cho thấy người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ​​đương thời chưa bao giờ được hạnh phúc. Họ bị đối xử quá bất công, dù bỏ ra bao nhiêu công sức, hy sinh hay lòng trung thành, họ cũng dễ dàng bị gạt bỏ và phủ nhận, cuối cùng phải gánh chịu kết cục bi thảm.

Hai trăm năm sau, Nguyễn Du xuất hiện trên văn đàn trung đại Việt Nam như một ngôi sao sáng, hầu hết các tác phẩm của ông đều có tư tưởng nhân đạo sâu sắc, đối tượng độc giả chính là những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. màu sắc nhưng cuộc đời lắm trái ngang và bất hạnh. Điều đó đã cho thấy một thực tế rõ ràng là sau hơn hai trăm năm bãi Núi, Thượng Hải tang Điền, thân phận người phụ nữ, vai trò và giá trị của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ​​vẫn không hề thay đổi. biến đổi. Họ vẫn chịu nhiều bất công nhất, đau đớn và uất hận nhất, ít ai để ý và cảm thông với cuộc đời họ, trừ một số nhà văn, nhà thơ có tư tưởng phóng khoáng như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn và những nữ thi sĩ sâu sắc. biết thân phận như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm.Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du từng là nhân vật nhận nhiều ý kiến ​​trái chiều, nhưng xét về nhân hình, nhân bản, nàng là một trong những nạn nhân bi thảm và đáng thương nhất của chế độ. chế độ phong kiến ​​hà khắc, cổ hủ, lạc hậu. Thúy Kiều có xuất phát điểm tốt hơn Vũ Nương, nàng là con nhà giàu, có nhan sắc chim sa cá lặn, có tài văn chương, thơ phú, “thông minh bẩm chất”, cộng với bàn tay điêu luyện. Vì vậy, có lẽ Kiều là hình tượng người con gái có vẻ đẹp trọn vẹn, tuyệt đối trong nền văn học Việt Nam. Không chỉ vậy, bản thân Thúy Kiều cũng có quyền tự do lựa chọn cho mình một tình yêu đẹp với Kim Trọng, thậm chí cả hai đã đi đến điểm đính hôn.Nhưng cũng như Vũ Nương, Thúy Kiều không được hưởng cuộc sống hạnh phúc lâu dài bởi những phẩm chất tốt đẹp của bản thân. Ban đầu, nhà Kiều gặp đại họa, cha và anh trai bị bắt đi, bị đánh đập, tài sản bị phong tỏa, tai họa đổ lên đôi vai nhỏ bé của cô con gái nhỏ. Trước tình cảnh éo le ấy, Thúy Kiều đành phải bỏ “tình”, theo “báo hiếu”, bán mình chuộc tội cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em. Đồng thời thất hứa với Kim Trọng, đòi em gái là Thúy Vân trả nghĩa cho mình. Qua những chi tiết này, có thể kết luận rằng, thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến ​​quả thực quá mong manh, nhỏ bé.Mới hôm trước nàng còn là tiểu thư đài các, hôm nay nàng đã trở thành món hàng có giá trị, trở thành thê thiếp cho một người đáng tuổi cha chú, phải chịu nỗi đau từ biệt gia đình, từ bỏ. tình yêu của anh. mối tình đầu. Trước những biến cố đổi đời như vậy, Thúy Kiều hoàn toàn không có chút phản kháng nào. không thể xoay chuyển tình thế và đành chịu khuất phục trước số phận vô ích. Bao nhiêu sắc đẹp, tài năng của người phụ nữ trước tư tưởng trọng nam khinh nữ, trước sự bất công của xã hội cũng không hề có trọng lượng, cùng lắm chỉ đáng vài trăm lạng bạc trắng. một đời người. Nhưng cuộc đời Kiều không chỉ dừng lại ở việc làm vợ lẽ cho người ta mà nàng còn bị đẩy đến bước bán hương.Sống cuộc đời đau đớn, khổ sở, tuyệt vọng sau nhiều lần bị lừa dối bởi những người đàn ông ghê tởm. Trong mắt những người này, Thúy Kiều là một kẻ hám lợi, họ lợi dụng sắc đẹp của nàng, rồi biến nàng thành tiền cho mình, chưa bao giờ thương hại hay cảm thông cho nàng. Cho đến khi Thúy Kiều gặp Thúc Sinh, nàng ngỡ như mình đã gặp được vị cứu tinh của đời mình. nhưng cuộc đời Kiều lại rơi vào đau khổ với chế độ đa thê phong kiến, một lần nữa chịu sự tủi nhục, chèn ép từ người vợ cả của Thúc Sinh, lại một lần nữa chịu sự áp bức dưới quyền lực. Nhan sắc và tài năng của cô trở thành thứ khiến mọi người ghen ghét, đố kị và tìm cách loại bỏ.Có thể nói, thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ​​phải chịu quá nhiều bất công và đau khổ, không những vậy, tài năng và nhân phẩm của họ không được coi trọng và đánh giá đúng mức. Là phụ nữ thời đại này, tôi xác định mình không thể có được hạnh phúc như ý muốn, người may mắn thì được an nhàn cả đời, kẻ kém may mắn thì phải chịu trăm ngàn đắng cay tủi nhục. Sống không bằng chết. lại một lần nữa chịu áp bức dưới cường quốc. Nhan sắc và tài năng của cô trở thành thứ khiến mọi người ghen ghét, đố kị và tìm cách loại bỏ. Có thể nói, thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ​​phải chịu quá nhiều bất công và đau khổ, không những vậy, tài năng và nhân phẩm của họ không được coi trọng và đánh giá đúng mức.Là phụ nữ thời đại này, tôi xác định mình không thể có được hạnh phúc như ý muốn, người may mắn thì được an nhàn cả đời, kẻ kém may mắn thì phải chịu trăm ngàn đắng cay tủi nhục. Sống không bằng chết. lại một lần nữa chịu áp bức dưới cường quốc. Nhan sắc và tài năng của cô trở thành thứ khiến mọi người ghen ghét, đố kị và tìm cách loại bỏ. Có thể nói, thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ​​phải chịu quá nhiều bất công và đau khổ, không những vậy, tài năng và nhân phẩm của họ không được coi trọng và đánh giá đúng mức.Là phụ nữ thời đại này, tôi xác định mình không thể có được hạnh phúc như ý muốn, người may mắn thì được an nhàn cả đời, kẻ kém may mắn thì phải chịu trăm ngàn đắng cay tủi nhục. Sống không bằng chết. Không những thế, tài năng và nhân phẩm của họ không được coi trọng và đánh giá đúng mức. Là phụ nữ thời đại này, tôi xác định mình không thể có được hạnh phúc như ý muốn, người may mắn thì được an nhàn cả đời, kẻ kém may mắn thì phải chịu trăm ngàn đắng cay tủi nhục. Sống không bằng chết. Không những thế, tài năng và nhân phẩm của họ không được coi trọng và đánh giá đúng mức.Là phụ nữ thời đại này, tôi xác định mình không thể có được hạnh phúc như ý muốn, người may mắn thì được an nhàn cả đời, kẻ kém may mắn thì phải chịu trăm ngàn đắng cay tủi nhục. Sống không bằng chết.

Qua hai tác phẩm tiêu biểu viết về thân phận người phụ nữ dưới chế độ cũ Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều, chúng ta nhận thấy người phụ nữ xưa phải nhận quá nhiều bất công, ngang trái trong cuộc đời. , họ không có quyền tự do, không có quyền mưu cầu hạnh phúc, không được tôn trọng dù đẹp hay xấu, giàu hay nghèo, cuộc đời gắn liền với hai chữ lênh đênh không biết đi về đâu. Nhưng cho đến hôm nay, khi xã hội đã đổi thay, khi đọc lại, chúng ta lại càng thấy trân trọng, yêu thương và cảm thông hơn cho những số phận éo le, đáng thương của biết bao kiếp người trong quá khứ.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Người mẫu 2

Nhà thơ Huy Cận từng viết:

Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử

Nắng cho đời, nắng cho thơ cũng vậy

Có thể nói, ngày nay, vị thế của người phụ nữ đã được đề cao và tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc sống và đã để lại nhiều hình ảnh sắc nét trong thơ ca hiện đại. Nhưng tiếc thay, trong xã hội cũ, người phụ nữ phải chịu một số phận éo le, đáng thương:

Đau xót cho thân phận đàn bà

Chữ rằng bạc bẽo cũng là chữ thường.

Đoạn thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du như một điệp khúc rùng rợn. Tuy nhiên, phụ nữ miền núi than thở “Thân em như con bọ ngựa, mạt chược!”, trong khi phụ nữ miền xuôi thân hình như ong, kiến. Điều này không phải là nói ngoa mà điều này được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong hai tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Dữ và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. .

Trong xã hội phong kiến ​​mục nát và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật nhỏ bé và bấp bênh. Văn học thời bấy giờ cũng đề cập đến nhiều kiếp người phụ nữ, trong đó có lẽ tiêu biểu là nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”.

Tục ngữ có câu “Đàn bà có công thì chồng chẳng phụ”, nhưng công lao của Vũ Nương không những không được biết đến mà bản thân nàng còn phải gánh chịu sự nghiệt ngã của số phận. Bà phải một thân một mình âm thầm nuôi già, nuôi con, những nỗi khổ vật chất đè nặng lên vai mà bà phải vượt qua. Những tưởng khi chiến tranh kết thúc, chồng trở về, gia đình đoàn tụ, nào ngờ sóng gió ập đến, bóng đen ghen tuông khiến Trương Sinh mê muội, mù quáng. Chỉ cần nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã nghĩ vợ mình hư hỏng. Trương Sinh không những không tra khảo mà còn đánh đập dã man, đuổi nàng đi không cho nàng thanh minh.Bị dồn đến bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc kiếp người.

Bên cạnh Vũ Nương, một hình tượng nổi bật khác là nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du. Hiếm có người phụ nữ nào trong văn học lại có số phận “dài dằng dặc” như Vương Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”. Ngay từ đầu tác phẩm, lời nhận xét “Trời xanh quen má hồng ghen” của tác giả đã báo trước sự việc đau lòng này. Thúy Kiều có một vẻ đẹp dịu dàng và thanh mảnh, tài sắc vẹn toàn lại có hiếu, lẽ ra nàng sẽ được sống một cuộc đời hạnh phúc và yên bình, nhưng vì một biến cố trong gia đình, nàng đã bị bán với giá hơn bốn trăm lạng vàng. . Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác cho đến khi cô tìm đến sông Tiền Đường tự vẫn.Dẫu biết cái kết của truyện Thúy Kiều là được đoàn tụ với gia đình, nhưng cả một đời người trôi dạt theo bao nhọc nhằn ấy đã chôn vùi cả một trang nhan sắc và tài hoa. Người đọc đã khóc bao lần chia phôi vĩnh viễn, Những ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, tủi nhục xé nát thân Thúy Kiều. Số phận bi đát ấy của cô gái đã khiến nàng mãi thốt lên “Tố Như nước mắt chảy quanh thân Kiều”.

Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà là số phận của rất nhiều người phụ nữ, là kết quả của biết bao nguyên nhân mà chế độ phong kiến ​​đã sản sinh ra như số phận của họ. kịch. Từ những mảnh đời bất hạnh ấy, Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp phần khái quát nỗi khổ chung của người phụ nữ, được thể hiện trong ca dao từ ngàn xưa:

Thân em như giọt mưa.

Hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng.

Đó không chỉ là tiếng kêu than đau thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần hiện thực xã hội đen tối, sự lạm quyền và đồng tiền. Đồng thời, nó cũng gián tiếp lên án các thế lực phong kiến ​​đã đẩy nhân dân vào tình cảnh đau thương. Với chế độ trọng nam khinh nữ: “Trọng nam, nữ trọng”, người phụ nữ đã bị tước bỏ mọi quyền lợi chính đáng, phẩm giá của họ bị che giấu. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến ​​hà khắc như đạo “tam tòng”, hay những quan niệm lạc hậu như “nữ nhi ngoại tộc”. Số phận người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, bị chà đạp, thậm chí bị coi là món hàng. Những tàn dư của chế độ cũ vẫn còn cho đến ngày nay, bên cạnh đó là nạn bạo hành phụ nữ vẫn còn khá phổ biến. Đặc biệt là ở nông thôn.

Phải chăng vì thế mà người xưa vẫn nói “Hồng nhan bạc phận” nhưng những lễ giáo hà khắc, lạc hậu cũng đã lùi vào dĩ vãng. Phụ nữ ngày nay có quyền bình đẳng, đặc biệt là quyền tự do trong hôn nhân và quyền tự quyết định số phận của mình. Mọi hành vi xúc phạm nhân phẩm người phụ nữ chắc chắn sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Dù ra đời cách đây gần hai thế kỷ nhưng những tác phẩm tâm huyết ấy vẫn gây xúc động sâu sắc và đau đáu trong lòng người đọc. Với nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã xây dựng một hình tượng người phụ nữ vô cùng đẹp đẽ và ý nghĩa. Bởi trong tác phẩm Vũ Nương cũng chỉ là một người phụ nữ bình thường như bao người phụ nữ khác, hơn nữa xuất thân từ một con người khó khăn nhưng nàng lại trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật thẩm mỹ, nhân vật lí tưởng.Riêng “Truyện Kiều” mang cảm hứng nhân đạo rõ nét – đây là sự kết tinh sức sống và tinh thần của dân tộc Việt Nam. Chính cảm hứng ấy đã kết tinh những giá trị tinh hoa nhất trong “Truyện Kiều”. Có được điều đó không phải do tài năng của Nguyễn Du mà do Nguyễn Du rất yêu thương con người.

Viết “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện Kiều”, Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đã góp tiếng nói xúc động vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Người mẫu 3

Trong văn học trung đại, nhiều tác giả đã viết về người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Chẳng hạn, Nguyễn Dữ với tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã khắc họa nhân vật Vũ Nương và Truyện Kiều của Nguyễn Du, Thúy Kiều – tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​với những phẩm chất tốt đẹp. đẹp mà khổ nhiều

Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân từ thường dân, có “tư duy tốt”. Nàng được Trương Sinh, con một gia đình giàu có trong làng, “đem trăm lạng vàng” đến cưới làm vợ. Nhưng chính sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình và đồng tiền đã phát huy “quyền năng” của nó khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “nhà khó, cậy nhà giàu”. Biết tính chồng đa nghi nên chị luôn giữ nề nếp, không để vợ chồng bất hòa. Cuộc hội ngộ không được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính.Tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy nói lời chung tình: “Không dám mong đeo ấn phong, mặc gấm trở về cố hương, Chỉ xin ngày anh trở về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Mong ước lớn nhất của chị không phải là danh vọng, tiền tài mà là cuộc sống gia đình yên ấm, hạnh phúc. Một thân một mình chèo thuyền, bà chăm sóc, thuốc thang cho mẹ chồng ốm đau như cha mẹ ruột của mình, tấm lòng hiếu thảo của bà khiến bà vô cùng cảm động, trước khi qua đời, bà nói: “Sau này trời sẽ tính phúc mà ban cho phù hộ độ trì, nòi giống tốt, đông đàn con, xanh tươi không phụ lòng người. tôi, cũng như tôi đã không phản bội mẹ tôi.”Không chỉ vậy, cô còn phải chăm sóc đứa con mới sinh. Vì thương con, lo cho con thiếu hình bóng cha và cũng để gửi gắm nỗi nhớ nhung nhớ thương chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò chơi bóng. Vào ban đêm, cô ấy chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con trai đang nhổ nước bọt rằng đó là cha của nó. Xã hội phong kiến ​​trong thời kỳ suy tàn khiến con người luôn cảm thấy bất an: chỉ là một trò đùa, một vật vô tri vô giác, vô tri vô giác như cái bóng cũng làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Năm sau, hết nghĩa vụ quân sự, Trương Sinh về nước. Nghe con nói, ông không nghĩ ngợi gì dù đó là lời của một đứa trẻ ngây thơ, trong sáng và quá mơ hồ.Trương Sinh mắng vợ rồi đuổi vợ đi, không cho giải thích. Cô thực sự thất vọng. Gia đình hạnh phúc tan vỡ. Tình yêu và niềm tin đã không còn nữa. Tuyệt vọng đến cùng cực, chán chường vô cùng, cô tìm đến cái chết để thanh minh cho mình. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến Vũ Nương không thể trở lại cuộc sống trần gian dù điều kiện là có thể. Cô thực sự thất vọng. Gia đình hạnh phúc tan vỡ. Tình yêu và niềm tin đã không còn nữa. Tuyệt vọng đến cùng cực, chán chường vô cùng, cô tìm đến cái chết để thanh minh cho mình. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến Vũ Nương không thể trở lại cuộc sống trần gian dù điều kiện là có thể. Cô thực sự thất vọng. Gia đình hạnh phúc tan vỡ.Tình yêu và niềm tin đã không còn nữa. Tuyệt vọng đến cùng cực, chán chường vô cùng, cô tìm đến cái chết để thanh minh cho mình. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến Vũ Nương không thể trở lại cuộc sống trần gian dù điều kiện là có thể.

Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​cũng giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định sẵn. Sinh ra trong kiếp đàn bà, dù giàu hay nghèo, không trừ một ai, chữ “bạc mệnh” đã trở thành “lời chung” – như cụ Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:

Khổ cho phụ nữ,

chữ xui đó cũng là chữ thường.

Và đến Thúy Kiều trong Truyện Kiều – tiếng kêu đau đớn, xót xa, não nề của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Số phận của nàng trôi nổi hơn Vũ Nương rất nhiều. Lần này, dưới chế độ tiền bạc đen đủi. Nó đã tạo nên mười lăm năm lưu lạc đau khổ của nàng Kiều xinh đẹp. Chỉ vì đồng tiền mà những kẻ bất lương đã khiến gia đình Kiều tan vỡ, ly tán. Để có tiền cứu cha và em trai, cô quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh – một tên buôn người độc ác. Và Kiều nghiễm nhiên trở thành món hàng để hắn cân đo, đong đếm, cò kè, mặc cả… Và từ tay tên lưu manh Mã Giám Sinh, Kiều rơi vào tay Tú Bà, bà chủ quán bar nổi tiếng.Là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi, lại lớn lên trong một gia đình trung nông, lương thiện, dòng dõi cao quý, nên Thúy Kiều không thể chấp nhận việc trở thành gái lầu xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những đòn roi dã man của Tú Bà, nàng đi tìm cái chết nhưng không được vì đã bị Tú Bà bắt gặp. Tú Bà tỏ ý muốn thuê Sở Khanh để lừa mình, ép cô trở thành gái lầu xanh thực sự. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu kiếp sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong sáng, đức hạnh, cô đã trở thành món đồ chơi thú vị của khách chơi. Số phận trái ngược của Kiều không dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, lênh đênh, lênh đênh, lưu lạc suốt mười lăm năm, chịu biết bao tai ương.Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu kiếp sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong sáng, đức hạnh, cô đã trở thành món đồ chơi thú vị của khách chơi. Số phận trái ngược của Kiều không dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, lênh đênh, lênh đênh, lưu lạc suốt mười lăm năm, chịu biết bao tai ương. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu kiếp sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong sáng, đức hạnh, cô đã trở thành món đồ chơi thú vị của khách chơi. Số phận trái ngược của Kiều không dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, lênh đênh, lênh đênh, lưu lạc suốt mười lăm năm, chịu biết bao tai ương.

Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến ​​với những luật lệ hà khắc và bất công đối với con gái. Ở đó, mạng sống của phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán và trả giá một cách công khai. Trong xã hội đó, họ chỉ như một vật vô tri, không có chính kiến ​​hay biện minh cho mình. Ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với nỗi khổ tương tự:

Thân em như giọt mưa.

Hạt vào hang, hạt ra ruộng cày.

Dân ca tuy bắt nguồn từ nhân dân lao động nhưng nó vẫn phản ánh số phận của người phụ nữ – “hạt mưa rơi”. “Hạt mưa” ấy không biết sẽ rơi xuống đâu: một nơi “pháo đài” hay “ruộng cày”? Dù là gì, dù muốn hay không thì họ cũng phải chấp nhận.

Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một phụ nữ thời phong kiến, bà cũng hiểu số phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Cô ấy viết:

Thân hình em vừa trắng vừa tròn

. Bảy nổi ba chìm với nước ngọt

Cô không muốn sống một cuộc sống bất công như vậy. Cô khẳng định rằng phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng những nỗ lực của cô chỉ là tia sáng hiếm hoi trong cuộc đời tăm tối của người phụ nữ. Suy cho cùng, những đau khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thỏa hiệp. Nếu họ biết đấu tranh đến cùng, không chọn cái chết để thanh minh thì những bất công đó sẽ không có điều kiện phát triển.

Chúng ta ai cũng ngậm ngùi, thương cảm cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là con người sống trong thời đại mới, chúng ta thật hạnh phúc khi không còn bị ràng buộc bởi những lề luật và thói hư tật xấu đó.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Mẫu 4

Khổ thân đàn bà

Chữ rằng xui xẻo cũng là chữ thường.

Nguyễn Du đã phải thốt lên lời than thở về thân phận “kiều nữ” – người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​Việt Nam xưa. Quả thật, từ xưa đến nay, phụ nữ chân yếu tay mềm đã là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất. Trong xã hội phong kiến, thân phận của họ càng bị rẻ rúng, khốn khổ. Cứ nhìn Vũ Thị Thiết trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và nàng Kiều trong kiệt tác văn học “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, ta sẽ hiểu hết số phận của họ.

Số phận của người phụ nữ xưa là một số phận bi thảm: đau khổ, bất hạnh, bất công, tài hoa, bạc mệnh – Hồng Nhan Dạ Trúc.

Vũ Thị Thiết, người con gái dịu dàng vừa có dung mạo lại vừa xinh đẹp. Nhưng không có cuộc sống hạnh phúc. Nàng kết hôn với Trương Sinh – một người đàn ông quyền lực, giàu có nhưng đa nghi, ghen tuông. Vì vậy, sống trong gia đình ấy, Vũ Nương luôn phải cố gắng giữ nề nếp để vợ chồng phải xảy ra mâu thuẫn. Những người như chị phải sống trong một xã hội trọng nam khinh nữ, sống trong xã hội đó làm sao có cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc được. Rồi họ cũng là nạn nhân của những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Khi Trương Sinh phải đi chinh chiến, nàng ở nhà chăm con và phụng dưỡng mẹ chồng già yếu. Tuy nhiên, cô vẫn bị chồng nghi oan và cuối cùng chỉ có thể chọn cái chết để chứng minh mình vô tội.

Số phận của Thuý Kiều là một bi kịch, một bi kịch tình yêu, một mối tình đầu tan vỡ. Nàng phải bán mình chuộc cha, hai lần thanh mai trúc mã. Hai lần tự tử, hai lần đi tu, hai lần phải vào lầu xanh, hai lần làm con, quyền sống, quyền hạnh phúc nhiều lần bị cướp mất. Trái tim trong sáng và trong trắng của người con gái tài sắc vẹn toàn như khúc gỗ trôi. Suốt mười lăm năm lưu lạc, nàng Kiều đã phải chịu biết bao cay đắng, tủi nhục dày vò bản thân. Nỗi đau đớn nhất của chị là nỗi đau khi nhân phẩm bị chà đạp, lòng tự trọng bị sỉ nhục:

Thân lươn trùm kín đầu

. Trái tim trong trắng sẽ được tha vào lần sau.

Như bèo lênh đênh trên sóng, như cánh buồm lênh đênh trên biển cả, cuộc đời Kiều lênh đênh, lênh đênh đến tận cùng bến bờ đau khổ. Giữa bầu trời, không có chỗ cho một con người. Dẫu rằng người đó chỉ có một ước muốn giản đơn là được sống bình yên bên cạnh cha mẹ, được yêu thương và chung thủy với người mình yêu.

Chính xã hội phong kiến ​​đang suy tàn đã biến những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn như Vũ Nương, Kiều đến một cuộc đời bất hạnh, một kiếp lênh đênh, bèo bọt như thế!

Càng căm ghét xã hội phong kiến ​​mục nát, thối nát bao nhiêu thì các nhà văn, nhà thơ càng trân trọng, yêu thương, bảo vệ và ca ngợi phẩm giá của người phụ nữ bấy nhiêu. Vũ Thị Thiết được Nguyễn Du trang trọng giới thiệu: “…người con gái Nam Xương, tính nết thùy mị, đôn hậu”. Ngay từ đầu văn bản, chân dung bà được thể hiện với sự ngợi ca, kính trọng của nhà văn. Không dừng lại ở đó, trong suốt chiều dài của văn bản, người đọc bắt gặp một người con gái Nam Xương vừa đẹp người vừa nết na. Cô ấy là một người mẹ hiền, con dâu ngoan, người vợ chung thủy. Chồng đi chiến trận, bà luôn giữ mình, thương nhớ chồng, chung thủy với chồng.Vũ Nương một tay nuôi con nhỏ, phụng dưỡng mẹ già vì thương nhớ con mà sinh bệnh tật, ốm đau. Có thể nói, viết về nhân vật của mình,

Còn cô Kiều thì sao? Viết về Kiều, Nguyễn Du nâng niu, trân trọng:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc phải xin một tài vẽ hai.

Kiều là một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Trong nhân gian chỉ có Kiều là hơn cả, còn về tài sắc, ngoài nàng có lẽ còn có người thứ hai là Đạm Tiên. Ngòi bút của nhà thơ viết về Kiều có lẽ đã đạt đến đỉnh cao, không còn từ ngữ nào có thể diễn tả được tài năng của nàng nữa. Bên cạnh tài năng và sắc đẹp, Nguyễn Du còn ca ngợi Kiều là người có tình có nghĩa. Kiều là người phụ nữ thủy chung bị bán vào lầu xanh nhưng nguyện chết để bảo vệ thân phận. Cô là người con gái hiếu thảo, không màng đến hạnh phúc của bản thân, sẵn sàng “bán mình chuộc cha”, giúp gia đình thoát khỏi khó khăn. Kiều làm tròn chữ hiếu, đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.Trong suốt cuộc đời dài lê thê của mình, Kiều không bao giờ cam chịu, không bao giờ nhường nhịn, trong ý thức của nàng, nàng luôn là “kẻ nổi loạn”, kẻ “nổi loạn”. Nàng thoát khỏi lầu xanh ô nhục của Tú Bà và Bạc Bà, thoát khỏi “hang rắn độc” của nhà quý tộc họ Hoan, và cuối cùng đến với người anh hùng Từ Hải. Và cuối cùng, cô đã trả ơn, trả thù, minh bạch, công khai. Kiều là hiện thân của người phụ nữ với khát vọng tự do, công lý và lẽ phải.

Với tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cao cả Nguyễn Dữ, Nguyễn Du đã miêu tả một cách chân thực, đáng thương số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về những người phụ nữ xinh đẹp bất hạnh ấy, các nhà văn, nhà thơ đã dành một sự kính trọng, một sự ôm ấp vô bờ bến. Chúng tôi cảm thấy điều đó và tiếc cho tình trạng của họ hơn bao giờ hết.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Người mẫu 5

Có lẽ đề tài người phụ nữ đã không còn xa lạ trong văn học trung đại Việt Nam. Nhưng nổi bật nhất phải kể đến “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Dữ.

Trước hết, “Chuyện người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ đã xây dựng hình tượng Vũ Nương là nạn nhân của một xã hội Nam Bộ đầy bất công. Chị là người vợ biết giữ nề nếp, không bao giờ để vợ chồng xảy ra bất hòa. Khi chồng phải đi lính, nàng và nàng không một lời phàn nàn mà còn ân cần, nhẹ nhàng khuyên nhủ: “Lang quân đi chuyến này, chẳng dám mong đeo ấn hầu, mặc một tấm áo gấm về quê xưa, chỉ xin Người về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Vũ Nương không muốn chồng trở về với vinh hoa, phú quý, danh vọng mà nàng chỉ mong bình yên. Một lời chúc giản dị nhưng thể hiện tình yêu sâu sắc với chồng.Vì bước ra chiến trường là phải đối mặt với nguy hiểm và cái chết. Vì vậy mong chồng bình an trở về là điều thiết thực nhất.

Năm tháng vắng chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, chăm sóc mẹ chồng nhưng Vũ Nương không hề than vãn một lời. Khi mẹ chồng đổ bệnh vì nhớ con, cô vẫn hết lời khuyên nhủ. Khi mẹ chồng qua đời, bà “không nương tay, trong mọi việc tang lễ; chăm sóc nó như con đẻ ra”. Đứa trẻ còn nhỏ, nàng rất thương nó và muốn nó có một gia đình đầy đủ. Vũ Nương nói dối con, chỉ vào cái bóng và nói rằng đó là cha của Đản. Chính vì một lời nói dối vô hại mà sau này đã mang đến bi kịch cho cuộc đời cô.

Trương Sinh đi lính trở về, gia đình đoàn tụ, tưởng rằng cuộc sống bây giờ sẽ hạnh phúc, nào ngờ cuộc đời Vũ Nương lại trở nên bất hạnh. Nghe tin mẹ mất, cô vô cùng đau buồn liền bồng con ra mộ viếng mẹ. Thấy con khóc, ông an ủi: “Con đừng khóc nữa, đừng khóc nữa! Lòng cha đã buồn lắm rồi!”. Đứa bé ngây thơ hỏi cha: “Cha cũng là cha của con phải không? Nó lại nói được chứ không như người cha trước đây chỉ biết im lặng”. Lời nói ngây thơ của đứa con khiến ông nghi ngờ vợ mình ngỗ nghịch. “Cái bóng” trở thành người cha an ủi con nhưng lại trở thành nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương .Khi về, Trương Sinh mắng vợ một trận để trút giận. Dù rất hối hận nhưng Vũ Nương vẫn cố gắng giải thích cho chồng hiểu. Người thân, hàng xóm bênh vực cũng không thắng. Biết là vô ích, Cô liền tìm đến cái chết để chứng minh mình vô tội. Tôi xót xa cho người phụ nữ mang tiếng là lẳng lơ, không thể minh oan cho sự trong sạch của mình, bị chồng ruồng bỏ và phải tìm đến cái chết để kết thúc tội ác của mình. Cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​đầy rẫy những bất công. Bạn không thể tự mình quyết định tình yêu, hôn nhân, cuộc sống của mình. Họ phải chịu đựng, chịu đựng mà không thể chống lại cái xã hội phong kiến ​​đó. Họ bị xã hội miền Nam chà đạp nhưng không thể tự quyết định số phận của mình.nhẫn nhịn nhưng không chống lại được xã hội phong kiến ​​đó. Họ bị xã hội miền Nam chà đạp nhưng không thể tự quyết định số phận của mình. nhẫn nhịn nhưng không chống lại được xã hội phong kiến ​​đó. Họ bị xã hội miền Nam chà đạp nhưng không thể tự quyết định số phận của mình.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du khắc họa hình ảnh Thúy Kiều – Nàng là nạn nhân của xã hội đồng tiền. Vì tiền, những kẻ lầm đường gây ra cảnh ly tán, ly tán nhà họ Kiều:

Đó là một ngày kỳ lạ và sai lầm

. Chỉ vì tiền mà nó khốc liệt thôi.

Xinh đẹp, tài năng nhưng trong xã hội ấy, Thúy Kiều không những không được hưởng hạnh phúc mà còn phải chịu nhiều cay đắng, bất hạnh. Cô phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và cứu anh trai ra khỏi ngục. Kiều trở thành món hàng để người ta mua bán, mặc cả. Không chỉ vậy, cô còn bị lừa bán vào lầu xanh, bị tống giam và bắt đi tiếp khách. Đời nàng như đóa hoa mong manh bị dòng nước cuốn đi, tàn tạ. Trước lầu Ngưng Bích – nơi Kiều bị Tú Bà giam lỏng, nàng bộc lộ nỗi xót xa cho thân phận của mình:

Buồn trông cửa bể chiều,

Thuyền ai thấp thoáng xa xa?

Buồn nhìn nước mới,

hoa trôi hoang, biết về đâu?

Buồn nhìn nội cỏ cũng buồn,

Chân mây mặt đất xanh một màu.

Buồn khi thấy gió thổi vào mặt. Âm

thanh lớn của sóng xung quanh chỗ ngồi.

Nỗi buồn dường như cứ đeo bám cuộc đời cô một cách dai dẳng. Nàng cay đắng chịu đựng những thủ đoạn thâm độc của Tú Bà. Mười lăm năm lưu lạc chịu biết bao tủi nhục, đau đớn. Thân xác héo úa bởi tình cảnh “ca hai hồi, áo tơi hai lần”.

Điểm giống nhau của hai nhân vật này là đều là những người phụ nữ xinh đẹp, tài năng và đức hạnh. Họ đều là nạn nhân của xã hội phong kiến ​​đầy bất công. Một xã hội mà thân phận người phụ nữ luôn bị coi thường, bị coi thường và bị đánh đập không thương tiếc. Vũ Nương hay Thúy Kiều đều là những người phụ nữ tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Khi viết về người phụ nữ, cả Nguyễn Dữ và Nguyễn Du đều đứng trên tư tưởng nhân đạo để bênh vực họ, tố cáo xã hội chà đạp cuộc đời họ.

Tóm lại, qua những phân tích trên, dường như người đọc đã hiểu hơn về người phụ nữ. Vũ Nương và Thúy Kiều là một trong những nhân vật tiêu biểu đại diện cho người phụ nữ Việt Nam xưa.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Mẫu 6

Phụ nữ là đối tượng để yêu thương và tôn trọng. Tuy nhiên, trong xã hội cũ, họ phải chịu nhiều cay đắng, bất hạnh. Và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Dữ đã thể hiện điều đó qua hai nhân vật Vũ Nương và Thúy Kiều.

Đầu tiên là Vũ Nương, nàng không chỉ đẹp bên ngoài mà còn có những nét đẹp bên trong. Cô ấy là một người vợ rất hiểu biết và lịch sự. Nhưng cuộc hôn nhân của Vũ Nương không hạnh phúc. Lý do thứ nhất là do không đăng ký kết hôn cho nhau. Trương Sinh là con một nhà giàu có, vì yêu Vũ Nương nên xin mẹ đem trăm lạng vàng sang hỏi cưới. Khoảng cách giàu nghèo khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “vốn nhà nghèo khó cậy sang nhà giàu”. Và đó cũng là con đường để Trương Sinh có những hành động vũ phu, tồi tệ. Trong những năm chồng đi lính, Vũ Nương phải vừa dạy dỗ con nhỏ, vừa phụng dưỡng mẹ chồng.Thế nhưng, chỉ vì lời nói trẻ con, Trương Sinh đã nghi ngờ vợ mất trinh. Tính cách ngang tàng, độc đoán khiến Trương Sinh không cho vợ thanh minh. Cuối cùng, Cô phải tìm đến cái chết để chứng minh mình vô tội. Khi Vũ Nương chết, Trương Sinh không bị xã hội lên án. Khi biết Vũ Nương bị oan, Trương cũng chỉ ân hận mà chưa có hành động cụ thể nào để thanh minh cho nỗi oan của vợ.

Vũ Nương không được lựa chọn tình yêu và hôn nhân. Cô phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” của tư tưởng Nho giáo. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương Sinh cũng gặp nhiều bất hạnh. Chiến tranh đã chia cắt đôi lứa, và chính chiến tranh cũng góp phần khiến Trương Sinh hiểu lầm. Sự ghen tuông, đa nghi của chồng cũng khiến cô tìm đến cái chết để có thể rửa sạch nỗi oan. Tất cả những lý do này khiến cuộc sống của cô trở nên bất hạnh hơn hầu hết. Trong một xã hội bất công “trọng nam khinh nữ” Vũ Nương chỉ biết nhẫn nhịn và chịu đựng, nàng không thể chống lại cái xã hội bất công ấy. Để rồi cuối cùng phải chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.Qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã tố cáo xã hội Nam quyền hà khắc,

Đến với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh người con gái tài hoa nhưng kém may mắn:

Kiều sắc sảo, mặn mà hơn,

So tài, sắc, là hơn.

Thu thủy, xuân sơn,

hoa ghen thua, liễu bớt xanh.

Nước nghiêng thành một hai,

Sắc phải xưng một, tài phải họa hai.

Thông minh vốn có thiên bẩm,

Hòa thơ họa họa, đủ mùi ca ca.

Không chỉ xinh đẹp, tài giỏi nhưng Kiều vẫn không tránh khỏi kiếp “hồng nhan, bạc mệnh”. Cô phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và cứu anh trai ra khỏi ngục. Kiều trở thành món hàng để người ta mua bán, mặc cả. Cô ấy đã đánh mất danh dự của mình như một con người. Không chỉ vậy, Kiều còn bị lừa bán vào lầu xanh, bị tống giam và ép đi tiếp khách. Cuộc đời cô từ đó trở nên ô nhục. Trước lầu Ngưng Bích – nơi Kiều bị Tú Bà giam lỏng, nàng bộc lộ nỗi xót xa cho thân phận của mình:

Buồn trông cửa bể chiều,

Thuyền ai thấp thoáng xa xa?

Buồn nhìn nước mới,

hoa trôi hoang, biết về đâu?

Buồn nhìn nội cỏ cũng buồn,

Chân mây mặt đất xanh một màu.

Buồn khi thấy gió thổi vào mặt. Âm

thanh lớn của sóng xung quanh chỗ ngồi.

Nhớ người thương, nhờ người yêu nhưng Kiều không thể về được. Nàng chỉ biết nhẫn nhục chịu đựng những thủ đoạn thâm độc của Tú Bà. Mười lăm năm lưu đày là mười lăm năm bà phải đối diện với những đau đớn, xót xa và ân hận. Thân xác héo úa bởi tình cảnh “ca hai hồi, áo tơi hai lần”. Cuối cùng khi đoàn tụ với Kim Trọng, cả hai chỉ còn giữ được tri kỷ.

Hai nhân vật này đều là những người phụ nữ xinh đẹp, tài năng và đức độ. Cả hai đều là nạn nhân của xã hội phong kiến ​​đầy bất công. Xã hội khiến người phụ nữ luôn bị coi thường, khinh thường và đánh đập không thương tiếc. Vũ Nương và Thúy Kiều đều là những người phụ nữ tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Các văn nhân của Nguyễn Du và Nguyễn Du đều đứng trên tư tưởng nhân đạo để bênh vực họ, tố cáo xã hội chà đạp cuộc đời họ.

Qua sự phân tích trên có thể thấy Vũ Nương và Thúy Kiều là nạn nhân của xã hội xưa. Chúng được các tác giả xây dựng nhằm gửi gắm những tư tưởng nhân đạo sâu sắc.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Văn mẫu số 7

Nguyễn Du sống ở thế kỷ 16, quê ở huyện Trường Tân, nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm hai mươi truyện nhỏ, trong đó Chuyện người con gái Nam Xương là truyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, mở đầu bằng truyện “Vợ chàng Trương”. Truyện thể hiện niềm cảm thông sâu sắc của tác giả đối với số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của họ qua nhân vật chính Vũ Nương.

Trước hết, Vũ Nương là một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp, một người phụ nữ bình thường xuất thân từ một gia đình nghèo khó nhưng có cả nhan sắc và đức hạnh. Tính tình hiền lành lại thêm tư duy tốt.

Vẻ đẹp của Vũ Nương mang vẻ đẹp của người phụ nữ – của chiếc bánh trôi trong thơ Hồ Xuân Hương “vừa trắng vừa tròn”. Vì thế, Trương Sinh con nhà phú hộ xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng, cuộc hôn nhân không bình đẳng nên Trương Sinh nghi kỵ, ghen tuông. Tuy nhiên, trong đạo vợ chồng, bà tỏ ra là một người phụ nữ thông minh, nhân hậu, biết chồng nghi kỵ hay ghen tuông, bà đã “luôn giữ gìn khuôn phép… không hòa thuận” chứng tỏ bà rất khéo léo trong việc vun đắp hạnh phúc. hạnh phúc gia đình.

Sống trong thời loạn lạc, hội ngộ chưa được bao lâu thì Trương Sinh lên đường tòng quân nơi biên ải. Tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu chúc chồng bình an “Không ngờ chuyến này… đủ rồi”. Mong ước của cô thật đơn giản chỉ bởi cô coi trọng hạnh phúc gia đình hơn tất cả những danh lợi phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nhớ chồng da diết: “Mỗi khi bướm đầy vườn, mây giăng núi biếc, nỗi buồn chân trời không dứt được”.

Tâm trạng nhớ nhung ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của bao kẻ chinh phụ trong thời loạn lạc năm xưa.

“Nhớ anh mãi đường lên trời, trời cao thăm

thẳm, xa vời vợi, em

nhớ anh da diết”

( Chinh phục ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm )

Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa đồng cảm với nỗi đau chia ly của Vũ Nương, vừa ngợi ca tấm lòng chung thủy của nàng.

Không chỉ là người vợ thủy chung, Vũ Nương còn là người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo, chàng vừa tròn một tuần chinh chiến thì nàng đã sinh con và nuôi con khôn lớn. Để bù đắp cho sự vắng mặt của cha của con trai, cô chỉ vào bóng của chính mình trên tường và nói rằng cha cô là Dan, và mẹ chồng già của cô, cô đã chăm sóc mẹ cô rất cẩn thận, thúc đẩy và nuôi dưỡng. giống như cha mẹ ruột của mình. Cô chọn chữ “công khai” với gia đình chồng. Đây là điều Vũ Nương rất trân trọng bởi xưa nay, mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và đầy những định kiến ​​khắt khe.

Tấm lòng của nàng đã được mẹ chồng ghi nhận, điều đó thể hiện qua lời trăn trối của nàng trước khi qua đời: “Sau này trời sẽ xét công minh, ban phúc cho nòi giống lục tối, sẽ không phụ lòng người như thế. Tôi đã không giúp mẹ tôi.” Vũ Nương là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội xưa: Công, dung, ngôn, hạnh.

Là một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp, lẽ ra chị phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, ít nhất là như chị mong muốn, đó là niềm vui bên gia đình, dòng họ, con cái sum vầy. Tuy nhiên, cuộc đời của Vũ Nương cũng như cuộc đời của người đàn bà xưa đều buồn và đầy nước mắt. Nỗi bất hạnh của nàng bắt đầu khi giặc tan, Trương Sinh trở về, câu chuyện về chiếc bóng con thơ là Trương Sinh nghi ngờ, rồi vu oan cho Vũ Nương. Anh cho rằng chị là người vợ tồi, chị tìm mọi cách giải thích để bày tỏ lòng chung thủy, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình đang đứng trước nguy cơ tan vỡ nhưng tất cả đều vô ích. Vốn hay ghen và vũ phu vô học. Trương Sinh đối xử với nàng rất tàn nhẫn, “quở mắng, đuổi nàng ra ngoài”, mặc kệ lời giải thích của vợ và lời khuyên can của láng giềng.Tuyệt vọng đến cùng cực, Vũ Nương phải mượn nước của quê hương để giải tỏa tấm lòng trong trắng của mình. Nàng “tắm gội ra bến sông Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than trời trách người này xui xẻo… Rồi nhảy xuống sông tự tử. Vũ Nương bị chính những người thân nhất của mình xô đẩy đến bờ vực thẳm, dẫn đến bi kịch gia đình.Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong XHPK) qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “thà chết trong cuộc sống hơn là sống trong một cuộc sống buồn tẻ”

Với tấm lòng yêu thương con người, Nguyễn Dữ không để cho sự trong trắng, xinh đẹp của Vũ Nương phải chịu sự bất công nên phần cuối truyện đầy những chi tiết hoang đường. Sau chuyện Phan Lang, Trương Sinh lập đàn minh oan cho vợ. Nàng trở về trong trạng thái uy nghiêm nhưng chỉ thoáng chốc rồi biến mất mãi mãi. Vũ Nương vĩnh viễn mất đi quyền sống, quyền sung sướng, quyền làm vợ, làm mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng là bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ. Bi kịch ấy không chỉ dừng lại ở thế kỷ XVI, XVII, XVIII mà đến đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều.

“Khổ thân đàn bà

Chữ rằng bạc bẽo cũng là chữ thường”

Với lòng xót thương sâu sắc, Nguyễn Du đã cảm thương trước những thế lực tàn ác chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người – của người phụ nữ. Ông đề cao xã hội phong kiến ​​với sự sa đọa phi lý, trọng nam khinh nữ, và hiện thân của nhân vật Trương Sinh, một người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu nhưng sống có hiếu. Tục lệ là sức ép của đồng tiền nên Trương Sinh, công tử nhà giàu đã bỏ ra một trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngoài ra ông còn tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm tan vỡ hạnh phúc gia đình người dân.

Như vậy, bằng cách xây dựng cốt truyện hết sức độc đáo, là sự kết hợp hài hoà giữa các yếu tố tự sự, trữ tình và hiện thực kì ảo. Truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương là người đầy phẩm chất tốt đẹp truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại đầy những trang buồn và nước mắt. Vẻ đẹp bạc mệnh của nàng cũng chính là vẻ đẹp bạc mệnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​xưa. Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới công bằng, dân chủ và văn minh, phụ nữ là một nửa của thế giới được hưởng các quyền bình đẳng như nam giới. Vì vậy, chúng ta hãy phát huy vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ thời xưa và đồng cảm với số phận của họ.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Văn mẫu 8

Đề tài phụ nữ luôn được các nhà văn ưu ái viết về họ. Những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​tuy có hoàn cảnh sống khác nhau nhưng đều phải chịu những đau khổ, số phận éo le. Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương là một người con gái như vậy.

Vũ Nương có tâm tốt, Trương Sinh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Khi về làm dâu, cô là một người con nhu mì, hiền lành và hiếu thảo. Là vợ Trương Sinh, nàng luôn giữ gìn nề nếp để hai vợ chồng không bao giờ phải xích mích. Cô chăm sóc mẹ chồng như chính cha mẹ ruột của mình, trong thời gian chồng đi bộ đội xa nhà, cô vẫn một mực chung thủy chờ chồng, chăm sóc mẹ già và các em nhỏ.

Niềm hạnh phúc sum họp gia đình có lẽ là niềm ao ước của tất cả những người phụ nữ có chồng ra trận. Ngày chồng về, niềm vui ngắn chẳng tày gang, chị phải chịu nỗi oan bị chồng nghi ngờ. Không có bố trong nhà, cô an ủi đứa con nhỏ bằng chiếc bóng của mình trên tường mỗi đêm. Nhưng chỉ vì lời nói của đứa trẻ mà Trương Sinh đã mang tiếng xấu cho nàng, không một lời biện minh, giải thích. Nàng chết trong nỗi oan, tủi nhục của một người vợ thủy chung, đợi chồng. Cho đến khi nàng mất, Trương Sinh mới nhận ra sự thật, đó là phút ân hận muộn màng cho người ở lại.

Khác với Vũ Nương, chị em Thúy Kiều sống cuộc sống của một gia đình khá giả, rèm che kín mít, mặc cho bức tường đầy ong bướm. Hai chị em đều có nhan sắc tuyệt trần. Đặc biệt, Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, thông minh và có thiên tư, một tài năng thiên bẩm không mấy ai có được. Nhưng số phận của nàng quá bi đát, khuôn mặt đa đoan, nhan sắc lại phải đi xin quà. , tài năng có một hòa hai.

Gia đình đang yên ấm bỗng gặp tai họa, vì cứu cha và em, Kiều đã chấp nhận chia tay mối tình với Kim Trọng, bán mình chuộc cha. Thay lời cảm ơn Thúy Vân đã ở lại chăm sóc cha mẹ, chúng tôi càng thấy thương cho thân phận của cô, một người con hiếu thảo và thủy chung trong tình yêu:

Trong tương lai, dù có bao giờ,

Thắp nén hương ấy, so chìa khóa này.

Trông ra cỏ cây,

Thấy gió thì về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Thân liễu nghĩa trúc ngàn mai.

Đó là những đau khổ mở đầu cho cả một cuộc đời 15 năm lưu lạc sóng gió, nếm trải biết bao tủi nhục đau khổ. Kiều được coi như món hời cho Mã Giám Sinh:

Cò bớt một thêm hai

Tiếng dài giá vàng hơn bốn trăm

Thân phận người phụ nữ bị coi thường, trở thành đối tượng để đổi lấy đồng tiền. Tiếc cho cô gái tài năng.

Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác cho đến khi cô tìm đến sông Tiền Đường tự vẫn. Dẫu biết cái kết của truyện Thúy Kiều là được đoàn tụ với gia đình, nhưng cả một đời người trôi dạt theo bao nhọc nhằn ấy đã chôn vùi cả một trang nhan sắc và tài hoa. Người đọc đã khóc cho những lần chia phôi vĩnh viễn, những ngày sống không bằng chết ở lầu Ngưng Bích, nỗi tủi nhục xé nát thân xác Thúy Kiều. Số phận bi đát ấy của người con gái đã khiến bao thế hệ phải thốt lên “Tố Như nước mắt chảy quanh thân Kiều.

Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều không phải là trường hợp cá biệt mà là số phận của rất nhiều người phụ nữ, là kết quả của nhiều nguyên nhân mà chế độ phong kiến ​​đã sản sinh ra. Số phận của họ thật bi thảm. Từ những mảnh đời bất hạnh ấy, Nguyễn Du và Nguyễn Du đã góp phần khái quát một kiếp người đau khổ chung của người phụ nữ, điều đó cũng đã được thể hiện trong ca dao từ ngàn xưa:

“Thân em như hạt mưa,

hạt rơi xuống giếng, hạt ra đồng”

Đó không chỉ là tiếng kêu than đau thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần hiện thực xã hội đen tối, sự lạm quyền, đồng tiền, đồng thời cũng gián tiếp lên án các thế lực phong kiến ​​đã đẩy nhân dân ta vào tình cảnh đau thương. nỗi đau. Số phận người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, bị chà đạp, thậm chí bị coi là món hàng.

Tác phẩm đã tố cáo xã hội phong kiến, chế độ nam quyền không cho người phụ nữ quyền được sống và bảo vệ hạnh phúc của mình. Với chế độ trọng nam khinh nữ: “Trọng nam, nữ trọng”, người phụ nữ đã bị tước bỏ mọi quyền lợi chính đáng, phẩm giá của họ bị che giấu. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến ​​hà khắc như đạo “tam tòng”. Qua đó, tác giả cũng thể hiện sự đồng cảm, xót xa cho người phụ nữ. Nguyễn Du và Nguyễn Du đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc qua trang viết về Vũ Nương và Kiều.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Văn mẫu 9

Vũ trụ có muôn vàn kỳ quan, nhưng kỳ quan đẹp nhất có lẽ là phụ nữ. Trong xã hội ngày nay, vai trò và hình ảnh người phụ nữ càng được tôn vinh hơn so với những giai đoạn lịch sử trước đây, khi đất nước ta còn đắm chìm trong đêm đen của chế độ phong kiến. Bi kịch thay, số phận người phụ nữ phong kiến ​​thật buồn vui lẫn lộn. Bằng sự đồng cảm, các nhà thơ, nhà văn cùng thời đã tạc vào lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh người phụ nữ thời phong kiến, đại diện cho vẻ đẹp hoàn mỹ. Đó là hai tác phẩm tiêu biểu “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Dữ. Hai nàng Kiều và Vũ Nương tuy tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời họ lại viết nên những trang buồn đầy nước mắt và bi kịch.

“Chuyện người con gái Nam Xương” xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương – một người con gái xinh đẹp, đức hạnh. Nàng kết hôn với Trương Sinh, con gái một gia đình giàu có nhưng ít học, đa nghi, ghen tuông. Cuộc sống gia đình đang yên ấm thì Trương Sinh phải đi lính. Chàng đi đã được tròn một tuần, Vũ Nương sinh con trai, dốc lòng nuôi con, phụng dưỡng, lo ma chay cho mẹ già, chu đáo, thủy chung chờ chồng. Đêm đêm, bà thường chỉ bóng của mình trên tường và nói với con rằng đó là bố của Đan. Chiến tranh kết thúc, Trương Sinh trở về, tin lời con, nghi vợ mất bình tĩnh, xúc phạm và đuổi vợ đi.Quá uất ức, Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử. Sau một thời gian, Trương Sinh biết được nỗi oan của vợ và lập đàn để minh oan cho nàng. Vũ Nương hiện ra giữa bến Hoàng Giang khi ẩn, lúc hiện rồi lại mất hút.

“Truyện Kiều” kể về Thúy Kiều, con gái đầu trong một gia đình trung nông lương thiện, sống cùng cha mẹ và hai người em, là người tài sắc vẹn toàn. Trong chuyến du xuân, Kiều gặp Kim Trọng, hai người yêu nhau, hai người tự do đính hôn. Kim Trọng về chịu tang chú. Gia đình Kiều bị oan, Kiều phải bán mình chuộc cha. Kiều bị bọn buôn người Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt đẩy vào lầu xanh. Nàng được Thúc Sinh cứu nhưng lại bị vợ cả của chàng là Hoạn Thư ghen tuông vô cớ. Kiều đến quy y cửa Phật, sư Giác Duyên tiễn nàng vào Bạc Bà vô tình đẩy nàng vào lầu xanh lần thứ hai.Tại đây Kiều gặp Từ Hải, Từ Hải lấy Kiều để giúp Kiều trả ơn. Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến hãm hại, Kiều bị ép lấy quan điền. Kiều đau đớn tủi nhục, Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu lần thứ hai. Kiều nữ nương nhờ cửa Phật. Sau đám tang của chú, Kim quay lại tìm Kiều thì mới biết gia đình Kiều bị tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha. Kim Trọng cưới Thúy Vân nhưng không khỏi si tình, chàng đi tìm Kiều. Nhờ gặp được sư Giác Duyên, Kim – Kiều gặp gỡ, đoàn tụ gia đình.

Nguyễn Du viết:

Khổ thân đàn bà

Chữ rằng xui xẻo cũng là chữ thường.

Đó là những lời bùi ngùi của Nguyễn Du khi viết về kiếp người phụ nữ trong xã hội mà ông đang sống. Dường như ông thấu hiểu nỗi khổ đau, bất lực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, một xã hội thối nát, đầy bất công, trọng nam khinh nữ. Tất cả những người phụ nữ thời đó đều nhu mì và dũng cảm, nhưng chỉ vì những thế lực phong kiến ​​và lối suy nghĩ ngu ngốc, cuộc sống của họ đã phải chịu nhiều đau khổ. Mỗi người một cuộc đời riêng, một nỗi khổ riêng nhưng đều có đặc điểm chung là “buồn tủi phận”. Ta có thể thấy điều đó qua nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và nhân vật Thúy Kiều trong “Sự thật truyện Kiều” của Nguyễn Du.

Phụ nữ thời phong kiến ​​xưa xuất hiện trong văn học thường là những mỹ nữ. Từ ngoại hình đến tính cách. Họ đều đẹp, nhưng mỗi người có một vẻ đẹp khác nhau, mỗi cơ thể có một vẻ riêng. Ở Vũ Nương, nàng “bí hiểm, nết na, nhiều suy tính”. Khi lấy Trương Sinh, biết chàng hay ghen nên nàng “cũng giữ phép tắc, không bao giờ để vợ chồng bất hòa”. Bà luôn một lòng, một dạ yêu chồng con nên khi Trương đi lính, bà “không ngờ được đeo ấn hầu tước, chỉ cần khi về nước là mang theo hai chữ bình an”.Có thể thấy, cô là một cô gái hiền lành, chất phác, lấy họ Trương, cô không mong danh lợi, phú quý mà chỉ vì một mong ước rất đỗi bình thường mà người phụ nữ nào cũng muốn “vui vẻ”. nghi ngờ, nghi ngờ”. Khi chồng đi lính, Vũ Nương một mình nuôi con, hết lòng chăm sóc mẹ chồng như mẹ ruột. Khi mẹ chồng ốm đau, nàng lại chăm sóc hết lòng, khi mất lại cử hành ma chay, cúng tế chu đáo, nuôi con khôn lớn chờ ngày Trương Sinh trở về Đó là những vẻ đẹp về ngoại hình và trong tâm hồn của người phụ nữ xưa.

Tô Thúy Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn. Khi cha bị nghi oan, nàng không có tiền cứu cha nên đã bán mình chuộc cha dù đã thề nguyền với Kim Trọng. Kể từ đó, nàng không biết bao nhiêu lần rơi vào tay những kẻ bán người như Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh. Nơi đất khách quê người, bị đẩy vào chốn lầu xanh, nàng vẫn lo lắng cho Kim Trọng, lo lắng cho cha mẹ mình hơn cả bản thân mình. Nàng nhớ Kim Trọng, nhớ những ngày cùng chàng ước nguyện. Cô lo lắng không biết ai sẽ chăm sóc cha mẹ, ai sẽ quạt cho cha mẹ khi mùa hè đến, ai sẽ đắp chăn ấm cho cha mẹ mỗi khi mùa thu đến. Một tâm hồn trung thành và cao thượng. Họ – những người phụ nữ thời phong kiến ​​đều là những người đẹp.Họ có tấm lòng trung thành, hiếu thảo với cha mẹ, luôn hết lòng chăm sóc gia đình chu đáo, chu đáo.

Những người phụ nữ xinh đẹp như vậy, tâm hồn cao thượng như vậy. Nhưng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội phong kiến ​​thối nát với bộ máy quan lại thối nát, chế độ nam quyền đè bẹp số phận của họ. Càng đẹp họ càng đau khổ, chịu nhiều áp bức, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt thời bấy giờ, mặt đỏ tía tai là một điều bất hạnh. Với Vũ Nương, sau khi chồng trở về, những tưởng gia đình sẽ đoàn tụ trong hạnh phúc nhưng không ngờ số phận nghiệt ngã lại xảy đến với nàng. Trương Sinh đi lính về, con trai lúc đó đã biết nói. Tin lời đứa trẻ ngây thơ, Trương Sinh đã nghi oan cho Vũ Nương. Hắn bảo thủ, mắng mỏ, đá xéo Vũ Nương thậm tệ.Bỏ qua lời khuyên của dân làng, không nghe lời giải thích của Vũ Nương, Trương Sinh với lòng ích kỷ, lòng ghen tuông thái quá đã đẩy Vũ Nương vào ngõ cụt. Cô phải lấy cái chết để giữ trinh tiết. Nhưng cái chết ấy không làm lương tâm Trương Sinh áy náy. Thật không công bằng! Cái chết của nàng không chỉ tố cáo bản lĩnh Trương mà còn tố cáo cả xã hội phong kiến ​​lúc bấy giờ. Với chế độ cường quyền miền Nam thối nát, độc tài đã làm cho người phụ nữ thời bấy giờ phải chịu biết bao nỗi bất công, tủi nhục không thể lý giải. Chỉ vì xã hội trọng nam khinh nữ, xã hội mà phụ nữ luôn bị hạ thấp mà cô phải ôm nỗi đau không được tha bổng rồi tự tử.Với chế độ cường quyền miền Nam thối nát, độc tài đã làm cho người phụ nữ thời bấy giờ phải chịu biết bao nỗi bất công, tủi nhục không thể lý giải. Chỉ vì xã hội trọng nam khinh nữ, xã hội mà phụ nữ luôn bị hạ thấp mà cô phải ôm nỗi đau không được tha bổng rồi tự tử. Với chế độ cường quyền miền Nam thối nát, độc tài đã làm cho người phụ nữ thời bấy giờ phải chịu biết bao nỗi bất công, tủi nhục không thể lý giải. Chỉ vì xã hội trọng nam khinh nữ, xã hội mà phụ nữ luôn bị hạ thấp mà cô phải ôm nỗi đau không được tha bổng rồi tự tử.

Không chỉ riêng Vũ Nương mà còn rất nhiều người phụ nữ phải chịu đựng nỗi đau ấy. “Phận đàn bà” trong xã hội ấy là “nỗi đau”, là “số phận bất hạnh”, là nỗi tủi nhục khôn tả. Như Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” – tiếng kêu đau đớn, xót xa, thống thiết của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Số phận của nàng trôi nổi hơn Vũ Nương rất nhiều. Lần này, dưới chế độ tiền bạc đen đủi. Nó đã tạo nên mười lăm năm lưu lạc đau khổ của nàng Kiều xinh đẹp. Chỉ vì đồng tiền mà những kẻ bất lương đã khiến gia đình Kiều tan vỡ, ly tán. Để có tiền cứu cha và em trai, cô quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh – một tên buôn người độc ác.Và Kiều nghiễm nhiên trở thành món hàng để hắn cân đo, đong đếm, cò kè, mặc cả… Và từ tay tên lưu manh Mã Giám Sinh, Kiều rơi vào tay Tú Bà, bà chủ quán bar nổi tiếng. Là một cô gái xinh đẹp, tài năng và lớn lên trong một gia đình trung lưu, lương thiện, dòng dõi cao quý, Thúy Kiều không thể chấp nhận việc trở thành gái điếm. Nàng cay đắng chịu đựng những đòn roi dã man của Tú Bà, nàng đi tìm cái chết nhưng không được vì đã bị Tú Bà bắt gặp. Tú Bà tỏ ý muốn thuê Sở Khanh để lừa mình, ép cô trở thành gái lầu xanh thực sự. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu kiếp sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong sáng, đức hạnh, cô đã trở thành món đồ chơi thú vị của khách chơi.Số phận trái ngược của Kiều không dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, lênh đênh, lênh đênh, lưu lạc suốt mười lăm năm, chịu biết bao tai ương. Trân trọng, với xuất thân cao quý, Thúy Kiều không thể chấp nhận việc trở thành gái lầu xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những đòn roi dã man của Tú Bà, nàng đi tìm cái chết nhưng không được vì đã bị Tú Bà bắt gặp. Tú Bà tỏ ý muốn thuê Sở Khanh để lừa mình, ép cô trở thành gái lầu xanh thực sự. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu kiếp sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong sáng, đức hạnh, cô đã trở thành món đồ chơi thú vị của khách chơi.Số phận trái ngược của Kiều không dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, lênh đênh, lênh đênh, lưu lạc suốt mười lăm năm, chịu biết bao tai ương. Trân trọng, với xuất thân cao quý, Thúy Kiều không thể chấp nhận việc trở thành gái lầu xanh. Nàng cay đắng chịu đựng những đòn roi dã man của Tú Bà, nàng đi tìm cái chết nhưng không được vì đã bị Tú Bà bắt gặp. Tú Bà tỏ ý muốn thuê Sở Khanh để lừa mình, ép cô trở thành gái lầu xanh thực sự. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu kiếp sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong sáng, đức hạnh, cô đã trở thành món đồ chơi thú vị của khách chơi.Số phận trái ngược của Kiều không dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, lênh đênh, lênh đênh, lưu lạc suốt mười lăm năm, chịu biết bao tai ương. Nàng đi tìm cái chết nhưng không được vì bị Tú Bà bắt gặp. Tú Bà tỏ ý muốn thuê Sở Khanh để lừa mình, ép cô trở thành gái lầu xanh thực sự. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu kiếp sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong sáng, đức hạnh, cô đã trở thành món đồ chơi thú vị của khách chơi. Số phận trái ngược của Kiều không dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, lênh đênh, lênh đênh, lưu lạc suốt mười lăm năm, chịu biết bao tai ương. Nàng đi tìm cái chết nhưng không được vì bị Tú Bà bắt gặp.Tú Bà tỏ ý muốn thuê Sở Khanh để lừa mình, ép cô trở thành gái lầu xanh thực sự. Thế là nàng đau đớn, cay đắng cam chịu kiếp sống ô nhục. Đau đớn thay! Từ một cô gái trong sáng, đức hạnh, cô đã trở thành món đồ chơi thú vị của khách chơi. Số phận trái ngược của Kiều không dừng lại ở đây mà số phận của nàng còn lênh đênh, lênh đênh, lênh đênh, lưu lạc suốt mười lăm năm, chịu biết bao tai ương.

Vũ Nương và Thúy Kiều đại diện cho lớp phụ nữ xưa. Họ không được hưởng bất kỳ quyền lợi nào, không được hưởng bất kỳ sự tự do nào. Những hủ tục phong kiến ​​thối nát đã làm cho người phụ nữ đau khổ. Số phận của họ không thoát khỏi nanh vuốt của cái xã hội phi lý ấy. Nhưng tất cả những vẻ đẹp từ hình thức đến tâm hồn của họ luôn đáng được ngợi ca, trân trọng và nâng niu.

Trong xã hội phong kiến ​​xưa, quyền sinh tồn của con người, đặc biệt là quyền của phụ nữ như chỉ mành treo chuông, không có gì bảo đảm để tồn tại. Cuộc sống của họ cũng có thể được ví như “chim trong lồng, cá trong chậu”. Họ không thể làm chủ bản thân, làm chủ cuộc sống của chính mình dù họ chỉ mong muốn một điều giản đơn đó.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Văn mẫu 10

Theo thần thoại Hy Lạp: “Chúa lấy vầng trăng tròn, cành uốn cong, dáng hoa rung rinh, sợi cói mềm mại, màu sắc rực rỡ của nhị hoa. , nhịp điệu nhẹ nhàng của lá, cảm giác tinh tế của vòi voi, ánh mắt chiêm ngưỡng của con nai, đàn ong, sự rạng rỡ của mặt trời, nỗi buồn của mây, dòng chảy của cơn bão. gió, sự rụt rè của con nai rừng, vẻ lộng lẫy của con công, hình dáng mượt mà của chim ưng, độ cứng của kim cương, vị ngọt của mật ong, hơi lạnh của tuyết và tuyết của uyên ương đã mang tất cả lại với nhau và đã nhào nặn nó thành đàn bà.” Có thể nói, đàn bà là biểu tượng của cái đẹp.Nhưng trong thời đại phong kiến ​​trọng nam khinh nữ, đầy rẫy những bất công, bất công thì người phụ nữ đã phải chịu nhiều cay đắng, bất công nhất. Tuy nhiên, những người phụ nữ này luôn xinh đẹp, dịu dàng, tràn đầy tình yêu thương và lòng nhân hậu. Có thể thấy chúng qua nhiều tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.

Trong xã hội phong kiến, dường như mọi thứ đều bất công với người phụ nữ. Không tình yêu, không hạnh phúc, không tiếng nói. Nhưng, chính những áp bức ấy lại làm sáng lên những phẩm chất, đức tính đáng quý, đáng quý của người phụ nữ. Phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ đẹp. Từ ngoại hình đến tính cách. Đọc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, ta thấy Vũ Nương là mẫu người phụ nữ thời phong kiến ​​với những phẩm chất đáng quý. Khác với Nguyễn Du miêu tả một cách tinh tế vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều, Nguyễn Du chỉ điểm qua vẻ đẹp của Vũ Nương một cách ngắn gọn: “ngoan tưng”. Nhưng chỉ với một chi tiết nhỏ như vậy, tác giả đã khắc họa phần nào hình ảnh người con gái với nhan sắc xinh đẹp.Cũng vì “tình yêu bao dung” nên Trường đã lấy cô làm vợ. Nhưng chữ “dung”, vẻ đẹp trang trọng ấy, ngàn năm không thể tỏa sáng như vẻ đẹp tâm hồn nàng. Vũ Nương “vốn con nhà khó”, nhưng lại rất tuân giữ “tam tòng tứ đức”, giữ gìn gia phong, tiết hạnh của chính mình. Vì thế, cô rất “thuận, hiền”. Đó là tiêu chuẩn của người phụ nữ Việt Nam. Trong gia đạo vợ chồng, nàng rất khéo léo, rất chú trọng việc “giữ kỷ cương” với hy vọng có một mái ấm gia đình hạnh phúc.

Tục ngữ có câu “Đàn bà có công thì chồng chẳng phụ”, nhưng công lao của Vũ Nương không những không được biết đến mà bản thân nàng còn phải gánh chịu sự nghiệt ngã của số phận. Một thân một mình âm thầm nuôi già, nuôi trẻ, những nỗi khổ vật chất đè nặng lên đôi vai người con gái này. Đó là thử thách quá khó khăn với một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng chị vẫn vượt qua tất cả, một mình tần tảo nuôi con chờ chồng trở về. Không những thế, cô còn hết lòng chăm sóc mẹ chồng đang lâm trọng bệnh: “Bà bốc thuốc thang, lễ Phật, khuyên nhủ ngọt ngào”. Trong quá khứ,

“Mẹ ngươi thật tàn nhẫn a, ta

biết chúng ta có thể cùng nhau ở chung.

Hoặc là trước sau như một đi ra ngoài.

Chậc chậc, ta yêu ngươi nhiều như vậy, đau lòng a.”

Nhưng cô thương mẹ chồng như chính cha mẹ đẻ của mình. Mọi việc trong nhà đều do cô ấy quán xuyến. Và lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng như lời nhận xét, đánh giá, phần thưởng xứng đáng cho công lao và sự hy sinh cao cả của chị dành cho nhà chồng: “Lục đó nhất quyết không phụ nhà chồng.

Em cũng như em đã không phụ công anh” Vậy nên trọn vẹn “nhân – dung – ngôn – hạnh” của chị là đỉnh cao của sự hoàn mỹ cả về hình thức lẫn vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam xưa dưới chế độ phong kiến.

Đến với nàng Ninh Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, một trang tuyệt sắc giai nhân, một người con hiếu thảo, một tấm lòng vị tha. Khi gia đình gặp tai họa, chúng ta cảm động nhớ đến hoàn cảnh của một Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha:

“Cò bớt một thêm hai

Giờ dài giá vàng trên bốn trăm”.

Hy sinh tình riêng để làm tròn chữ hiếu. Hành động đó khiến người đọc thực sự ấn tượng:

“Hạt mưa nghĩ đến sự hèn,

Dẻ mang một tấc cỏ đền ba suối”.

Sống nơi đất khách quê người, nỗi nhớ người yêu – một biểu hiện của tình yêu thủy chung không bao giờ phai nhạt trong tâm hồn cô gái nghèo này: “Nét son có bao giờ phai?”. Kiều không giấu giếm nỗi nhớ chàng Kim mãnh liệt. Mới hôm trước cùng Kim Trọng hẹn ước trăm năm mà nay Kiều phải đột ngột cắt đứt mối tình ấy. Ngòi bút của Tố Như thật tinh tế khi nói lên nỗi niềm của Thúy Kiều về người yêu, điều đó cũng phù hợp với quy luật tâm lí và bộc lộ cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Chén rượu thề bao lâu dư vị còn đọng trên môi, trăng còn đó nhưng đã xa.Kiều đau đáu nhớ người yêu, hình như lúc này chàng vẫn chưa biết nàng đã chìm đắm trong gió bụi cuộc đời, nên chàng ngóng chờ tin nàng trong vô vọng!

Còn chị thì “Riêng một góc trời bơ vơ”, không biết bao giờ mới phai nhạt tấm lòng mà chị đã quyết dành cho anh kể từ ngày “thề non hẹn biển”. Câu thơ “Dòng son tẩy mãi không phai” có thể hiểu là tấm lòng son sắt, là nỗi nhớ Kim Trọng không bao giờ nguôi hoặc cũng có thể hiểu là tấm lòng son sắt của Kiều đã bị vùi dập, hoen ố. Kiều quên cả nỗi đau riêng mà dành trọn tình cảm cho cha mẹ, nàng quả là một người vị tha:

“Tiếc thương ai ngày mai trên cửa,

Ai quạt ấm lạnh ai?”

Số phận con người – đó là nỗi day dứt không nguôi trong lòng Nguyễn Du. Tấm lòng nhân hậu bao la của nhà thơ đã dành trọn đời mình cho một kiếp người với niềm thương cảm, xót xa sâu sắc.

Tiếc rằng cũng là kiếp người,

Hại thay đem tài làm chi.

Đây là những đau khổ của quá khứ

Đợi đến cuối đời, thân là gì!…”

Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng thổn thức đến nao lòng. Từng chữ, từng chữ như những giọt nước mắt chan chứa tình người của tác giả thương tiếc cho số tập.

Khổ thân đàn bà

Chữ xui vẫn là lời thường.

“Phận đàn bà” trong xã hội phong kiến ​​xưa thật đau đớn, tủi nhục khôn tả. Sự sùng bái phong kiến ​​hà khắc như sợi dây độc ác trói buộc người phụ nữ. Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội mục nát ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm của mình. Những tưởng khi chiến tranh kết thúc, chồng trở về, gia đình đoàn tụ, nào ngờ sóng gió ập đến, bóng đen ghen tuông khiến Trương Sinh mê muội, mù quáng. Chỉ cần nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã nghĩ vợ mình hư hỏng. Trương Sinh không những không tra khảo mà còn đánh đập dã man, đuổi nàng đi không cho nàng thanh minh. Bị dồn đến bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc kiếp người.

Bên cạnh Vũ Nương, một hình tượng nổi bật khác là nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngay từ đầu tác phẩm, lời nhận xét “Trời xanh quen má hồng ghen” của tác giả đã báo trước sự việc đau lòng này. Thúy Kiều có vẻ đẹp dịu dàng, mảnh mai, tài sắc vẹn toàn lại có hiếu, lẽ ra nàng được sống một cuộc đời hạnh phúc, yên bình nhưng vì biến cố trong gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. . Nỗi bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác cho đến khi cô tìm đến sông Tiền Đường để kết liễu cuộc đời vĩnh hằng. Dẫu biết kết thúc truyện Thúy Kiều được đoàn tụ với gia đình nhưng cả một đời chìm nổi đã vùi dập cả một tài sắc vẹn toàn.Người đọc đã khóc bao lần chia phôi mãi, những ngày sống không bằng chết trong lầu Ngưng Bích, Nỗi tủi nhục xé nát thân xác Thúy Kiều. Số phận bi đát đó. Bi kịch tình yêu của người con gái tài sắc vẹn toàn đã khiến người đời phải thốt lên:

“Tố Như nước mắt chảy quanh thân Kiều”

(Đôi giày của bạn)

Cái kết của hai tác phẩm khiến lòng ta chợt se lại ngậm ngùi. Thương hại vì Vũ Nương đoan chính, tiết hạnh, trung thành nhưng lại phải chịu nỗi nhục phải tự tử để rửa hận, và chỉ khi Trương Sinh hiểu ra sự thật, lập đàn minh oan cho nàng thì đã quá muộn. màng. Xót xa vì một người con gái trọn tình và hiếu thảo như Thúy Kiều lại gieo mình xuống dòng sông lạnh giá. Có lẽ số phận của Vũ Nương và Thúy Kiều cũng là số phận bi thảm của người phụ nữ trong thời kỳ phong kiến. Số phận ấy mong manh như ngọn nến trước gió, sẵn sàng vụt tắt bất cứ lúc nào. Vũ Nương, Thúy Kiều… còn biết bao nhiêu số phận đáng buồn, đàn bà vẫn đi vào ngõ tối.

Với tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cao cả Nguyễn Dữ, Nguyễn Du đã miêu tả một cách chân thực, đáng thương số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Viết về những mỹ nữ tài sắc vẹn toàn này, các nhà văn, nhà thơ đã dành lời ngợi ca và tình cảm vô bờ bến. Chúng tôi cảm thấy điều đó và tiếc cho tình trạng của họ hơn bao giờ hết.

Văn học nghệ thuật hôm nay tiếp tục gìn giữ vẻ đẹp của người phụ nữ ở một khía cạnh mới, một phương diện mới. Và xã hội ngày nay đã tạo mọi điều kiện để người phụ nữ được thể hiện mình và hơn hết họ cũng là người được xã hội tôn vinh ngày lễ của phụ nữ. Hãy bỏ dần những lễ giáo khắc nghiệt, cổ hủ trong thơ xưa và thay vào đó là những bài ca vui tươi về người phụ nữ. Mượn lời nhà thơ Xuân Quỳnh để một lần nữa khẳng định giá trị và vai trò của người phụ nữ trong xã hội:

Một buổi sáng nàng lội chân trong cát

Người mẹ sinh ra Phù Đổng Thiên Vương

Dù là nguyên thủ quốc gia hay bậc anh hùng

Là kẻ sĩ hay là ai

Đó là con

đàn bà Đàn bà Bình thường chẳng ai biết tên.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​- Văn mẫu 11

Trong xã hội phong kiến ​​xưa đầy hủ tục lạc hậu, số phận người phụ nữ có thể nói là vô cùng đau khổ, bấp bênh, trôi nổi, họ không được coi trọng. Họ là nạn nhân của xã hội phong kiến ​​với nhiều định kiến ​​hẹp hòi, bất công đối với phụ nữ. Vũ Nương phải tìm đến cái chết để giải mọi ân oán. Thúy Kiều cũng đã nhiều lần tự vẫn với mong muốn giải thoát cho cuộc đời đau khổ, bất công. Vũ Nương là chân đế của chế độ nam quyền, trong đó tư tưởng trọng nam khinh nữ là tối thượng.

Cuộc hôn nhân của Vũ Nương cũng được “mua” bằng tiền của Trương Sinh. Không chỉ vậy, Trương Sinh còn có tính cách gia trưởng, ghen tuông, vũ phu. Điều này càng làm cho số phận của Vũ Nương thêm bi đát. Thúy Kiều là nạn nhân của xã hội đen vì tiền. Vì tiền mà sà nha khiến gia đình ly tán, ly tán, Kiều phải bán thân cho Mã Giám Sinh. Cũng vì tiền mà bọn Mã Giám Sinh, Tú Bà độc ác đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng đau đớn, cay đắng suốt mười lăm năm lưu lạc, phải “hai lần gột rửa, gột rửa”. . Số phận của người phụ nữ thời phong kiến ​​thật đáng thương.

Dù ở trong hoàn cảnh đầy rẫy những bất công như vậy nhưng người phụ nữ vẫn toát lên vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Họ đều là những người phụ nữ không chỉ có ngoại hình xinh đẹp mà còn có trái tim nhân hậu. Trước hết là vẻ đẹp hình thể, người đẹp. Vũ Nương có tính tình nhu mì, dịu dàng, vẻ đẹp dịu dàng, thùy mị, dễ mến. Ngoài ra, cô ấy có một tư duy tốt. Kiều là đỉnh cao của sắc đẹp, một vẻ đẹp “sắc sảo, mặn mà” khiến “hoa ghen, liễu hờn” với “Thu thủy xuân sơn”.

Vẻ đẹp bên ngoài còn gắn liền với một tâm hồn cao thượng, thật sự “đẹp người, đẹp người”. Với Vũ Nương, tính cách nàng không chỉ dịu dàng, khéo léo, không màng danh lợi mà còn rất dũng cảm, hiếu thảo, thủy chung, chung thủy với chồng, hy sinh vì gia đình. Chồng đi vắng, chị ở nhà lo lắng, chăm sóc con cái, mẹ già, làm tròn nghĩa vụ của một người cha, người con. Còn Thúy Kiều là người đa tài, phong lưu, thủy chung; hiếu thảo với cha mẹ, Trong “tứ đức”, “công” là tiêu chuẩn để đánh giá một người phụ nữ tài giỏi khi họ có đủ các tài: “tay, thi, thi, họa”. Và Thúy Kiều có tất cả những món ăn này. Nàng luôn chung thủy với Kim Trọng.Vì lòng hiếu thảo với cha mẹ, nàng quyết định bán thân chuộc cha.

Như vậy, Vũ Nương và Kiều đều là những người phụ nữ thời phong kiến ​​tài sắc vẹn toàn. Trong hoàn cảnh phong kiến ​​khắc nghiệt, số phận của họ thật bi thảm nhưng không làm lu mờ đi vẻ đẹp của họ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *