Phân Tích Hình Ảnh Người Đàn Bà Làng Chài     

Phân tích hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một trong những dạng câu hỏi thường gặp trong chương trình Ngữ Văn lớp 12 hay trong các đề thi tốt nghiệp THPT. Có thể nói, nhân vật người đàn bà làng chài đã trở thành một hình tượng xuyên suốt diễn biến, mọi diễn biến cốt truyện đều xoay quanh nhân vật này. Nhằm giúp các bạn học sinh nắm được cách phân tích người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, PCI Lào Cai xin chia sẻ bài văn mẫu Phân tích người đàn bà làng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Phân tích ngắn gọn về bà làng chài để các em hiểu rõ hơn về tính cách của bà làng chài trong công việc.

1. Lập dàn ý phân tích hình ảnh người đàn bà làng chài

I. Giới thiệu

– Tác giả Nguyen Minh Chau

– Giới thiệu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

– Giới thiệu nhân vật lão ngư

Tham khảo phần mở đầu của chủ đề này trong phần Phân tích.

II.Phân tích

1. Không

– Không có tên cụ thể, thường gọi là “bà làng chài”, “bà mẹ”.

– Chỉ là một con người vô danh như bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận của con người ấy được nhà văn chú trọng và độc giả quan tâm nhất trong truyện ngắn này.

2. Ngoại hình

– Thô ráp, lốm đốm, luôn xuất hiện với “gương mặt mệt mỏi” – đó là hình ảnh của một con người bận rộn, mất hết sức sống, niềm vui, sức sống.

– Nghèo khó, vất vả (lưng áo trắng)

– Mặc cảm, tự ti (vẻ ngoài nhút nhát)

=> Nhà văn cảm thấy xót xa cho cảnh ngộ của con người ngay khi miêu tả ngoại hình và cảm xúc của nhân vật.

3. Số phận đau khổ, bất hạnh

*Chuyển tiếp:

Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài của nhân vật mà ngòi bút nhân văn của ông đã đi sâu khám phá mạch ngầm thực sự của nỗi bất hạnh của người đàn bà phố thị.

– Người phụ nữ không bằng lòng, nhịn nhục (người phụ nữ bị đánh)

– Người phụ nữ chịu nhiều đau khổ: mệt mỏi vì thức trắng đêm kéo lưới, chịu đựng cảnh bị chồng đánh, sợ con bị tổn thương khi phải chứng kiến ​​cảnh bạo lực gia đình.

4. Vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.

* Thay đổi ý kiến:

– Tham khảo các cách chuyển đổi sau:

Đằng sau dáng vẻ thô kệch, đằng sau vẻ ngoài rách rưới, đằng sau hành động nhẫn nhịn, người đọc còn nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách tiềm ẩn của người đàn bà hàng chài này.

– Thay đổi ý tưởng tốt hơn:

Nếu bạn đã từng thích những nhân vật nữ trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, bạn sẽ thấy yếu tố “nữ tính bẩm sinh” không được thăng hoa ở bất cứ đâu trong người đàn bà rách rưới này.

Một. Vẻ đẹp của người từng trải sâu sắc: đẹp nhất nhưng đặc biệt nhất

– Chồng bạo hành: do hoàn cảnh bắt buộc chứ không phải do tự nhiên

– Người đàn bà đánh cá cần một người đàn ông trên thuyền để chèo khi gặp bão.

– Từ khi Đảng và Nhà nước được thành lập, cuộc sống còn nhiều bất cập: bất hợp lý, không hợp lòng dân.

b. Vẻ đẹp của lòng bao dung, đức hạnh, độ lượng: thiên chức của người phụ nữ.

– Cô bằng lòng để chồng đánh, không khóc, không đánh trả, không bỏ chạy -> Cô dại đưa lưng cho chồng ăn đòn (nhìn lâu)

– Nhìn tấm lưng xanh xao (thấy nghèo khổ) thương vợ nên đã đánh chị => biểu hiện tiêu cực.

– Nàng không trách chồng mà lại có lỗi với chồng (vẻ đẹp nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam)

– Chị chấp nhận đánh đập như một cách để giải tỏa sự ức chế, uất ức của chồng -> tấm lòng hi sinh cao cả, chị hiểu chồng.

“Tôi thấy anh là người có lỗi trong chuyện này.

c. Vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng

– “Ngư dân chúng tôi sống vì con chứ không sống vì mình”

-> Người mẹ này thương con vô cùng, khi vô tình để cậu bé Phác nhìn thấy cảnh tượng ngược lại -> vừa đau vừa xấu hổ

– Năn nỉ con, ôm vào lòng -> sợ con làm bậy với bố.

– Khi nói về không khí thanh bình trên thuyền, ông vui khi “ngồi nhìn đàn con ăn no nê”, “khuôn mặt xám xịt bỗng tươi như cười”

III. Kết luận

Suy nghĩ của em về nhân vật.

2. Vì sao người đàn bà hàng chài không bỏ chồng?

Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho người đọc thấy hai hình ảnh đối lập: hình ảnh con thuyền trong sương sớm trông là một kiệt tác và cảnh đối lập cũng là một kiệt tác. bạo lực gia đình của những người sống trên thuyền.

Vì vậy đọc xong tác phẩm, ít nhiều người đọc cũng suy nghĩ tại sao người đàn bà hàng chài không bỏ chồng?

Ta có thể thấy người đàn bà hàng chài không bỏ chồng vì:

  • Chị hiểu những khó khăn, vất vả về kinh tế của gia đình đang đè nặng lên vai chồng.
  • Cô mặc cảm vì sinh nhiều con
  • Chồng từng là ân nhân của kiều nữ làng chài
  • Anh vẫn muốn sống vì con
  • Và trên thuyền, cả gia đình vẫn có những phút giây vui vẻ.

3. Bạn sẽ làm gì nếu bạn là một ngư dân?

Đọc xong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, em có nhiều suy nghĩ về nhân vật người đàn bà làng chài. Có thể nói, những người phụ nữ làng chài là những người phụ nữ rất sâu sắc và từng trải. Nếu chỉ nhìn từ một phía, chúng ta có thể thấy cuộc sống của anh đúng là cuộc sống của một người từng bị bạo lực gia đình. Tuy nhiên, câu chuyện nào cũng có những góc khuất của nó và chúng ta phải nhìn nó từ nhiều góc độ khác nhau. Nếu tôi là một ngư dân, tôi sẽ cố gắng thay đổi gia đình dần dần bằng cách học các biện pháp tránh thai. Tôi cùng chồng con chăm chỉ làm ăn để cuộc sống gia đình dần khấm khá.Hãy cố gắng cho con tiếp cận tri thức để sau này đổi đời. Về phía người chồng vũ phu, anh ta sẽ cố gắng khôi phục lại bản chất tốt đẹp của người đó.

4. Phân tích ngắn gọn hình ảnh người làng chài

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu với nhiều tác phẩm viết trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Theo nhà văn Nguyễn Khải, “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy văn xuôi Việt Nam và cũng là người lót đường tuyệt vời cho những cây bút trẻ tài năng trong tương lai”. Thầy đã để lại cho lớp hậu thế một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng bất tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật chính của câu chuyện là một bà hàng chài đã để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ, trăn trở về câu chuyện cuộc đời.

Sau một bức tranh thiên nhiên rất đẹp và trong lành đã lọt vào mắt xanh của nhiếp ảnh gia Phùng trong một chuyến công tác về biển. Tuy nhiên, đằng sau ánh đèn rực rỡ và lấp lánh đó là một góc khuất mà bao người bỏ lỡ. Hình ảnh những người phụ nữ hiện lên trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một phụ nữ trạc bốn mươi, người viết không biết tên, nhưng đặt “mẹ”, “bà hàng chài” để ám chỉ, ở đây có rất nhiều phụ nữ trùng tên. cùng hoàn cảnh với tôi.

Sau một vài đoạn miêu tả, là hình ảnh người phụ nữ với “vóc dáng thường thấy của người dân biển, dáng cao, nét thô kệch. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, xanh xao, có vẻ ngái ngủ.” Chắc chắn những vết rỗ trên mặt anh đều là do khối lượng công việc, nắng mưa, bão biển tác động lên mặt anh. Một người lao động vất vả, chịu thương chịu khó nhưng đói nghèo vẫn bủa vây gia đình anh. Cái nghèo còn thể hiện ở “áo cũ hoen ố, ướt đáy”. Từ cách cư xử, đi đứng cho đến việc “tìm một góc ngồi” càng khiến anh trở nên đáng thương và đáng thương hơn. Một người dũng cảm đương đầu với phong ba bão táp giữa biển rộng, nhưng lại trở nên khinh bỉ và mặc cảm khi đối diện với loài người.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn miêu tả sâu sắc, chân thực nhân cách làm người của ông. Những người phụ nữ, những người vợ luôn nhẫn nhịn, phục tùng là điển hình của xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến ​​cảnh một người đàn ông to lớn và thô bạo giáng một cú mạnh vào cơ thể yếu ớt của người phụ nữ, ngay cả một người đàn ông như Phùng cũng không thể cưỡng lại được. Tuy nhiên, người phụ nữ vẫn không ngừng buông ra những lời lẽ hằn học, chửi thề. Đôi mắt anh ta ném một con đường tối tăm không tìm thấy ánh sáng trong cuộc đời anh ta. Có lẽ, anh đã quá quen và chấp nhận cuộc đời mình phải trải qua “ba ngày đánh nhẹ, năm ngày đánh nặng”.

Nỗi đau về thể xác không thể so sánh với nỗi đau về tinh thần, sự giày vò vì sợ con cháu bị hại khi phải chứng kiến ​​cảnh đau thương đó. Người con thương mẹ cầm dao trên tay nhưng người mẹ “phục tùng con để mẹ không phạm tội trái đạo đức”. Dù nghèo khổ nhưng ông vẫn biết đạo lý ở đời, ông không muốn con mình phải đi theo con đường nghèo khổ mà đời cha mẹ chúng đã đi. Lòng anh cũng đau, xót lắm khi cái nghèo đẩy cả gia đình anh vào vòng bần cùng. Những ngày ăn xương rồng luộc chấm muối, cái đói, cái no luôn thường trực, thường trực trên chiếc ghe thối của gia đình ông.

Tưởng chừng với dáng hình thô kệch ấy, anh sẽ không biết thế nào là lịch sự, nhưng với những gì đã trải qua, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ càng sâu sắc hơn. Khi bị đưa ra tòa, Phụng và Đẩu muốn giúp chị thoát khỏi vụ ly hôn nhưng chị xin quan tòa rằng “ông có thể bắt tôi, ông có thể bỏ tù tôi, đừng để tôi bỏ mẹ”. Cho đến tận cùng nỗi đau, khi được lựa chọn giải thoát, anh ta đã từ chối. Chắc hẳn bạn đọc sẽ cảm thấy khó hiểu và bật cười với bà cụ ngốc nghếch. Tuy nhiên, sau những lời tự đáy lòng, mọi người đã hiểu và không khỏi nể phục người phụ nữ.Chị luôn khen ngợi chồng, chị biết anh là người hiền lành và hay giận nhưng cái nghèo đã khiến anh trở thành một người cộc cằn, thô lỗ.

Hình tượng người đàn ông cũng có nhiều điểm tương đồng như nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong Di sản. Ông có cái nhìn sâu sắc, thấu hiểu chân lý cuộc sống và lòng người, khác với quan điểm của Đẩu và Phùng. Đàn bà biết rằng: Là con gái cần một người đàn ông chèo lái con thuyền, con cái cần một người cha để nương tựa. Dù họ có độc ác và tàn nhẫn đến đâu thì đó vẫn là một người đàn ông họ cần. Họ nghèo nên là dân oan, họ không có quyền đòi hỏi một người giàu có và học thức.

Mặc dù trước và sau cách mạng, đường lối của Đảng luôn hướng tới bảo vệ quyền con người cho mọi người, giúp mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, ở đây người dân lênh đênh trên bốn bể nước, họ vẫn gồng gánh hàng ngày miếng cơm manh áo. Sự hy sinh và hiểu đời của anh khiến người đọc không khỏi xót xa cho một người phụ nữ.

Dù tôn trọng chồng nhưng tình mẫu tử của cô cũng rất đáng khen ngợi. Sợ con bị hại, chị bắt chồng bế lên bờ đánh đập, niềm vui của chị khiêm tốn khi “được ngồi nhìn con ăn no là vui nhất”. Các con là nguồn sức mạnh để anh sống và tiếp tục sống. Ý chí kiên cường của ông được hun đúc bởi tình yêu thương con, ông chấp nhận hy sinh tính mạng để mong con có cuộc sống bình yên hơn. Tỏa sáng trong hình ảnh người phụ nữ làng chài là đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu thương chồng con, giàu đức hi sinh, vị tha.

Qua tác phẩm của Perahu, chỉ qua các nhân vật nữ trong truyện, người đọc có thể thấy được cuộc sống của rất nhiều phụ nữ Việt Nam ở mọi lứa tuổi. Tấm lưng xanh xao, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn lũ trẻ có lẽ sẽ đọng lại rất lâu trong tâm trí người đọc. Nhà văn không chỉ gửi gắm niềm cảm thông, xót thương cho hoàn cảnh bị đày đoạ, nghèo khổ mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm nhơ nhớp, nhơ nhớp. .

5. Phân tích hình ảnh người phụ nữ đánh cá – mẫu 1

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đậm phong cách tự sự – triết luận của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho cách tiếp cận cuộc sống từ góc nhìn trần thế của nhà văn trong chặng thứ hai của sự sáng tạo. Truyện ra đời trong bối cảnh đất nước ta đang từng bước đổi mới, đời sống kinh tế còn nhiều mặt tiêu cực, nhiều vấn đề khiến người dân băn khoăn. Truyện ngắn này được in lần đầu trong tuyển tập Ben desa (1985), sau đó được tác giả lấy làm tên chung cho tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài trở thành tâm điểm của câu chuyện Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong lần khám phá thuyền chài của Phùng lần thứ hai và xuất hiện trong chính câu chuyện đời anh được kể ở tòa án huyện. Vì vậy, cuộc đời, thân phận, tính cách, số phận của ông gây xúc động mạnh, trăn trở không chỉ cho tác giả mà còn cho cả người đọc.

Người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch và là “cô gái xấu xí, lâu lâu lại bị đậu mùa”. Cô hàng chài trong truyện ngắn này không có nhan sắc “tài sắc vẹn toàn”, cô xấu xí, mặt đầy tàn nhang càng khó nhìn hơn khi đã ngoài 40 tuổi.

Ngoài vận đen: Trong câu chuyện đời mình, ông ý thức rất rõ về vận đen của mình: “Cũng do xui nên đi đường không ai lấy, tôi có bầu con trai. Tôi mang thai đứa con trai từ sợi dây câu giữa đường. đầm hay đến nhà tôi mua mồi đan lưới”.

Đồng thời, tác giả cũng miêu tả rõ nét cuộc sống khó khăn của người phụ nữ làng chài. Tính cách: Một người phụ nữ cam chịu, nhẫn nhịn. Hành động và lời nói của người chồng: “tung cơn giận như lửa đốt bằng cách dùng thắt lưng đấm vào lưng người phụ nữ, ông ta đánh bà ta trong khi bà ta thở hổn hển, hai hàm răng va vào nhau lập cập, mỗi cú giáng xuống, ông lão lại chửi bới bằng một giọng rên rỉ đau đớn . : “Các anh chết vì anh ấy. Chúng tôi đều chết vì anh ấy, xin anh”.

Trước hành động dã man của chồng, người đàn bà đánh cá không la hét, không chống trả hay tìm cách trốn thoát. Người phụ nữ giàu lòng tự trọng. Chồng đánh như vậy cô cũng không khóc. Nhưng chỉ sau khi biết hành động bạo lực của chồng, Phác và người lạ (nghệ sĩ Phùng) mới thấy xót xa, đau đớn, xấu hổ và nhục nhã. Nhiều khi đòn roi khiến người ta không cầm được nước mắt, điều này đúng với trường hợp của các nữ ngư dân. Những giọt nước mắt đau thương chất chứa bao nhọc nhằn chỉ thực sự rơi khi thấy đứa con trai yêu dấu chứng kiến ​​cảnh mình bị chồng đánh, chỉ thực sự rơi khi có người lạ chứng kiến.

Sống sao cho sâu sắc, hiểu bản chất cuộc đời, hiểu chồng, thương con vô bờ bến, người phụ nữ vị tha giàu đức hi sinh. Được mời lên tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, anh bẽn lẽn tìm một góc phố khác ngồi. Nhà văn đã miêu tả, đây không phải là lần đầu tiên một người phụ nữ đến nơi công cộng nhưng người phụ nữ vẫn mang vẻ mặt sợ hãi và xấu hổ – nỗi sợ hãi khó xử ấy dù đứng ở sân bể cũng vậy. không thấy gì cả. . Anh sợ đi vào một không gian xa lạ. Anh ta rất tội nghiệp, một tư thế ngồi thụ động, vịn vào thành ghế và cố ngồi, ngồi như tự bào chữa cho mình mặc dù Đẩu đã nói những lời rất thân mật, chia sẻ, cảm thông.

Nguyễn Minh Châu đã từng nhấn mạnh đến sự thay đổi trong ngôn ngữ và thái độ của những người đàn bà hàng chài. Lúc đầu gặp chánh án Đẩu, ông cũng tự xưng là “con” và có lúc van xin: “Con lạy ngài”… “Bác bắt tôi bỏ tù cũng được, đừng ép tôi. rời đi.” Nhưng khi thấy Phụng xuất hiện với cái đầu cúi gằm, bà hàng chài lập tức ngước mắt nhìn thẳng: “Con cảm ơn chú… Chú tốt bụng, nhưng chú không phải là người kinh doanh… nên chú không hiểu đâu. công việc? người làm việc chăm chỉ và kiên trì?”

Vẻ khinh thường, sợ hãi, cử chỉ khác, ngôn ngữ khác khiến Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên. Những người đàn bà đánh cá kia không dễ dàng như Đẩu và Phụng tưởng. Hóa ra, nghề đánh cá trên bè nổi không thể thiếu bàn tay, sức lực của những người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại của cả gia đình, họ phải chung tay làm lụng vất vả để nuôi hơn chục đứa con. Số phận của người phụ nữ đánh cá cũng giống như hầu hết các gia đình đánh cá khác, chỉ khác là cô ấy nói: “Giá như tôi sinh ít con hơn hoặc chúng tôi có thể mua một chiếc thuyền lớn hơn”.

Trong câu chuyện cuộc đời mình, người đàn bà hàng chài chấp nhận đau khổ, coi cuộc sống là lẽ đương nhiên. Anh sống vì con chứ không phải vì mình. Nếu một người phụ nữ trên thuyền khác chấp nhận một người đàn ông uống rượu, cô ấy cũng chấp nhận chồng đánh cô ấy, nói với chồng cô ấy đánh cô ấy trên bãi biển, đừng để trẻ em nhìn thấy. Đó là một cách rất nhân văn.

Ở đây, có lẽ cuộc sống chiến thắng. Những con người nghèo khó, cần cù không có quyền lực, nhưng họ có trái tim của một người yêu thương con cái và hiểu rằng cuộc sống cũng là một sức mạnh hủy diệt mạnh mẽ. Nó đã khiến Hà Kim Dậu và nghệ sĩ Phùng chấp nhận rất nhiều. Miếng ăn nhận được, là công sức lao động vất vả của cư dân biển. Hiểu được sự bấp bênh của cuộc sống khiến họ phải chấp nhận nhiều khó khăn và mâu thuẫn. Nhận thấy người đàn bà kia bị đòn roi không phải là vô lý, cả Đẩu và Phụng đều cay đắng nhận ra rằng: trên thuyền phải có một người đàn ông…dù có dã man, tàn ác cũng cần có một người đàn ông. để chèo chống lại một vùng biển động.

Nhận thức nhận được ở người phụ nữ chứa đựng tình mẫu tử sâu xa như một bản năng: “Trời sinh ra người phụ nữ để sinh con, rồi nuôi con khôn lớn, rồi mới phải chịu cực khổ”. Những lời của người phụ nữ đánh cá là. phát âm từ niềm tin giản dị nhưng vững chắc vào sứ mệnh thiêng liêng mà Chúa đã trao phó cho người phụ nữ. Nhận thấy cô hàng chài biết tìm cho mình niềm vui, hạnh phúc dù là rất nhỏ nhoi trong cuộc sống còn nhiều vất vả.

Ở ông niềm tin mãnh liệt, yêu đời và lạc quan vào cuộc sống. Biết đời dù sống có chông chênh, nụ cười chợt nở trên môi, ông nghĩ “trên thuyền đã có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ” và vui mừng khôn xiết. “Hãy nhìn con trai của chúng ta, nó no rồi.” Hạnh phúc với bà hàng chài thật giản dị nhưng không kém phần sâu sắc. Ý thức về nỗi đau cũng như sự thấu hiểu sâu sắc về cuộc sống của những người phụ nữ khác chưa bao giờ bộc lộ ra bên ngoài.

Kết thúc truyện ngắn mà người đọc vẫn chưa biết tên người đánh cá, phải chăng nhà văn sơ suất? Không, đó là dụng ý nghệ thuật của người viết, nhà nhiếp ảnh cho biết mỗi khi nhìn kỹ vào bức ảnh mà anh ta chụp, anh ta thấy người đánh cá bước ra khỏi bức tranh “anh ta đi những bước chân chậm chạp, dày đặc trên nền đất rắn chắc, trộn lẫn. với đám đông…” tức là người phụ nữ chỉ là một trong nhóm người cần cù, chịu khó, cực nhọc, đông đảo… và vô danh.

Qua cảm nhận về người đàn bà đánh cá, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định với chúng ta rằng, ở người phụ nữ trên biển nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung, ở người phụ nữ Việt Nam nói chung, sự cần cù, chịu khó, nhọc nhằn không hề mất đi ở tình yêu thương, lòng nhân ái, vị tha. Và với người phụ nữ, một gia đình hạnh phúc là một gia đình có đầy đủ các thành viên, cho dù vẫn còn một số cá tính chưa hoàn thiện.

Bằng sự phân biệt giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện một cách nhìn mới về con người. Ông khai thác số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường để đi tìm cái đẹp ở những con người bình thường. Suốt đời ông quan niệm làm văn là đi tìm “viên ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi người”.

Bằng tài năng của một nhà văn bản lĩnh, thông qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, nhà văn cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: bạo lực gia đình, đói nghèo, thất học, cá tính bị cô lập… là những mâu thuẫn, nghịch lý của cuộc sống. Số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông cảnh tỉnh chúng ta hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta thấy rõ hơn: không thể đơn giản, chỉ nhìn mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn phiến diện, phiến diện về con người và cuộc sống. Đây cũng là một nét mới trong văn xuôi sau 1975, nơi Nguyễn Minh Châu là “người mở nước, công thần của một triều đại văn học mới”.

6. Phân tích tính cách người ngư dân – văn mẫu 2

Chiếc thuyền ngoài xa đã xoay xở xây dựng được hình ảnh người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ vất vả, bất hạnh, sống và tỏa sáng bằng tình yêu thương, đức hi sinh, lòng vị tha cao cả. Người đàn bà đáng thương để lại cho người đọc niềm cảm thông sâu sắc và sự trân trọng những phẩm chất đáng quý của bà.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, đời sống kinh tế còn nhiều bất lợi, nhiều vấn đề khiến người ta băn khoăn. Truyện ngắn này được in lần đầu trong tuyển tập Ben desa (1985), sau đó được tác giả lấy làm tên chung cho tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Nhà văn đã cố gắng xây dựng nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật bản chất đáng quý của nhân vật này. Tất cả những gì diễn ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, hoàn cảnh của anh đều tạo nên những xúc cảm, trăn trở mạnh mẽ không chỉ cho tác giả mà còn cho cả người đọc.

Đọc cả truyện, người đọc không biết tên thật của người đàn bà là gì, người viết tùy tiện gọi bà: có khi gọi là bà hàng chài, có khi gọi là cô, có khi gọi là cô…. Khi người đàn bà này trình diện ở tòa án huyện để gặp Thẩm phán Dau, tôi vẫn không

biết tên Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho cô hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” về ngôn ngữ đến mức không đặt được tên cho cô, mà bởi cô cũng giống như hàng trăm người đàn ông khác. Cô ở vùng biển nhỏ này: cô là một ẩn số, một hình ảnh tiêu biểu cho cuộc sống cơ cực, khó khăn như bao người phụ nữ khác, không phổ biến ở những miền quê Việt Nam. Điều đó cho thấy một thực tế rằng, không chỉ người phụ nữ bất hạnh mà còn rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ phải chịu cảnh éo le.

Tác giả đã dùng những từ ngữ rất đắt giá để miêu tả người đánh cá với thân hình xấu xí và tàn tạ “khoảng 40, thân hình thường thấy của người phụ nữ đi biển, dáng người cao lớn với những đường nét thô kệch. Mặt lấm tấm tàn nhang. Vẻ mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng và kéo lưới, nhợt nhạt và như thể đang buồn ngủ.” Vì cuộc sống lam lũ, vất vả, khổ cực nên hình dáng vốn đã xấu xí nay lại xù xì.

Người phụ nữ bất hạnh không chỉ phải chịu cảnh thiếu thốn về ngoại hình do tạo hóa mang đến mà dường như mọi bất hạnh của cuộc đời đều đổ hết lên đầu chị, xấu, nghèo, nghèo và thường xuyên hứng chịu những trận đòn cay nghiệt của người chồng đã làm chị tổn thương, đau đớn. . .

 Phân Tích Hình Ảnh Người Đàn Bà Làng Chài     
 Phân Tích Hình Ảnh Người Đàn Bà Làng Chài     

7. Phân tích tính cách người ngư dân – văn mẫu 3

Ai đó đã từng nói “Những tác phẩm nghệ thuật đích thực luôn tôn vinh con người thông qua một hình thức nghệ thuật độc đáo”. Đó là lý do tại sao chúng ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ với những phong cách hoàn toàn khác nhau ở những ngã rẽ của cùng một hành trình tìm kiếm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn Vợ mời và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là những trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết tốt về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân đã xây dựng được nhân vật người vợ tảo tần qua một tình huống truyện độc đáo, với lối kể chuyện giàu chất triết lí thì Nguyễn Minh Châu lại phát hiện ra một nghịch lý trong cuộc đời người đàn bà làng chài.Qua cả hai tác phẩm, tác giả cho ta thấy vẻ đẹp tiềm ẩn của người phụ nữ Việt Nam trong hoàn cảnh khó khăn.

Có thể nói, trong truyện ngắn “Isteri Jempet”, nhân vật người vợ do người vợ thủ vai, tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm, dù là một người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho. Nhân vật của bạn là một người dũng cảm. Được khắc họa rõ nét trong sự tương phản giữa nội và ngoại, thoạt đầu, người vợ hiện lên với đầy đủ những thuộc tính của một con người bình thường trong nạn đói thê thảm Từ đứa con gái “ngồi chơi”. ngoài cửa kho” nhí nhảnh, tựa vào nàng dâu hiền lành, đảm đang, đoan chính là hành trình bất ngờ với nhiều thăng trầm trong cuộc đời nhân vật. Tác giả đã lựa chọn tình huống truyện độc đáo để nhân vật bộc lộ giá trị của mình .

Mở đầu tác phẩm, vẻ đẹp của người vợ được chọn bị che khuất bởi những con số tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không tên tuổi, không nhan sắc, không tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng làm nổi bật sự xấu xí của hắn: “quần áo tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy gò hốc hác”, “trên khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Vừa nghe Trang hát, anh “chạy theo” đẩy xe cơm cùng, hôm sau “đâm đầu chạy”, “cong” đứng trước mặt đòi “của nợ” rồi “cúi đầu ăn ngay”. . bốn bát bánh xốp.” Trong số những lựa chọn nghiệt ngã:

Tuy nhiên, xuyên suốt diễn biến câu chuyện, con người thật của nhân vật bị vợ lấy dần hiện ra dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, bẽn lẽn, cúi đầu, chân chạm vào nhau” khi đi ngang qua khu nhà ở, trên đường đến nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái dịu dàng, đằm thắm và e ấp một cách dễ thương chứ không còn cái “mụt” tục tĩu trước đây. Những buổi sáng sau khi về làm vợ Tràng, chị dậy sớm quét tước, giặt giũ, nấu nướng, ăn nói cư xử đàng hoàng khiến ngay cả Tràng cũng phải ngạc nhiên vì sự thay đổi đó. Thị đã trở thành người vợ đảm đang, người con rể ngoan giỏi quán xuyến việc nhà. Đây có phải là bản chất tốt của người vợ để mời?Ngay cả chi tiết theo Tràng không về làm vợ, nếu để ý kỹ ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khát vọng tình yêu, hạnh phúc và cháy bỏng tổ ấm của một gia đình nông dân chất phác. Tóm lại, với nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật tài tình, Kim Lân đã thành công khi xây dựng nhân vật người vợ kén chồng có tâm hồn cao đẹp đáng trân trọng, ngợi ca.

Ngoài “vợ nuôi” thì nhân vật bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Với tư cách là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét với lối viết hiện thực trong sự tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa sắc và chất. Xuất hiện trong một tình huống nghịch lý dưới sự khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật người thôn chài hiện lên với vẻ đẹp tiềm ẩn khiến ta không khỏi xót xa, trăn trở, lo lắng.

Hiện ra trước mắt người đọc, người đàn bà làng chài hiện lên với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch: cao lớn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “xanh xao”, “tấm lưng tơi tả, xơ xác”. Cuộc đời chị là những chuỗi ngày làm lụng vất vả, chịu trận đòn roi của chồng: “nhẹ ba ngày đánh, năm ngày đánh nặng”. Người đọc có thể đồng cảm với những hoàn cảnh bất hạnh nhưng lại dễ vỡ mộng trước sự nhẫn nhịn, cam chịu tột độ khi âm thầm chấp nhận mình là nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng đằng sau vẻ ngoài xấu xí và sự nhẫn nhịn đó là một tấm lòng vị tha, độ lượng, sự hy sinh cao cả và sự bướng bỉnh, dũng cảm hiếm có của người phụ nữ. Cô chấp nhận cuộc sống đó vì thương con và sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ mái ấm gia đình. Với anh, “phụ nữ lái đò phải sống vì con chứ không phải sống vì mình”. Và dù có bị đánh đập, hành hạ đến đâu, người phụ nữ ấy vẫn đồng cảm với cảnh ngộ của chồng, vẫn lưu giữ từng khoảnh khắc hạnh phúc trong đời. Dù thất học, quê mùa nhưng người đàn bà làng chài vẫn là một người phụ nữ hiểu chuyện, hiểu rõ bản chất của cuộc sống.Lập luận của anh là lập luận của một người đã trải qua nhiều thăng trầm khác nhau, không chỉ làm chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà cả chúng tôi đều ngạc nhiên và khâm phục.

Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những nhân cách nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong lam lũ của đời thường, trong những lúc khó khăn của cuộc đời có thể ẩn hiện nhưng không bao giờ mất đi. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi khắc họa nhân vật bằng những chi tiết rất chân thực, vừa bộc lộ những bất hạnh, cuộc đời bất hạnh của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người này.

Tuy nhiên, có nhiều điểm khác biệt giữa hai nhân vật. Vẻ đẹp của người vợ được chọn được miêu tả qua phẩm chất của đôi tân lang tân nương, được bộc lộ qua khiếu hài hước trong nạn đói thảm khốc. Thị như một luồng gió “lạ lành” thổi vào cuộc sống đói khổ, tăm tối của những người hàng xóm và gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới lán của Nguyễn Minh Châu là phẩm chất của một người mẹ tần tảo mưu sinh, hiện lên đầy kịch tính trong những tình huống bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến chúng ta băn khoăn về cách nhìn nhận con người và mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời thực. Sở dĩ có sự khác biệt là do phong cách nghệ thuật và thời điểm của hai nhà văn.Vẻ đẹp tiềm ẩn của người vợ được diễn ra trong quá trình phát triển và biến đổi từ thấp đến cao, mang đến cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kỳ kháng chiến. Trong khi đó, nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một thực tại hiện sinh đau đớn. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

Tóm lại, người vợ khách và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật mà Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đã xây dựng rất thành công. Tuy có nhiều khác biệt về văn phong nhưng với tinh thần nhân văn cao cả, cả hai nhà văn đã phát hiện và trân trọng vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm này, tác giả cũng cho ta thêm niềm tin về sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp ở con người trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Với tất cả những giá trị về nội dung và nghệ thuật, chắc chắn cả hai nhân vật và tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu sẽ còn trường tồn trong kho tàng văn học nước nhà.

8. Phân tích hình tượng người phụ nữ làng chài – Văn mẫu 4

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, có lối viết giàu biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải bồi hồi, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện giàu sức gợi. Hình ảnh người phụ nữ làng chài để lại trong lòng người ta những ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của người dân trong thời kỳ đổi mới.

Chiếc thuyền ngoài xa kể về hành trình sáng tác của nhiếp ảnh gia Phùng khi đến với vùng đất ven biển này. Và từ hành trình này, anh nhận ra nhiều khía cạnh của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn còn bỏ lỡ. Hình ảnh người phụ nữ là một hình ảnh đáng sợ làm cho người ta hoang mang, lo lắng và đau đớn. Có thể nói, người dân làng chài là biểu tượng cho cuộc đời khó khăn, kém may mắn của người phụ nữ.

Người phụ nữ xuất hiện trong câu chuyện của nhiếp ảnh gia Phùng là một người đầy vất vả. Nguyễn Minh Châu với nét vẽ tinh tế đã phác họa một hình ảnh tuyệt vời về “người phụ nữ trạc 40 tuổi, dáng người đặc trưng của đàn và biển, cao với những đường nét thô kệch. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, xanh xao, trông buồn ngủ.” Một người phụ nữ thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy vất vả, đầy đau khổ và đầy lòng trắc ẩn. Người đàn bà tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết “áo phai đốm, ướt mông” có phần cay đắng, khổ sở. Giữa đại dương bao la, có một người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.

Người phụ nữ vẫn đầy cam chịu và nhẫn nhịn khi chồng giận mắng. Đôi mắt ấy như xuyên sâu vào tim người đọc, ám ảnh cho đến khi lật trang sách. Đôi mắt ông đầy sự thương hại, đầy sự trả thù và cũng tràn đầy tình yêu thương dành cho những đứa con của mình.

Xuyên suốt quá trình đi tìm vẻ đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người phụ nữ trở thành tâm điểm của vẻ đẹp ấy. Vẻ đẹp đầy gian khổ, khó khăn và đau khổ. Hành động bạo lực của chồng khiến chị im lặng, không ai phàn nàn gì.

Và lời từ chức được lặp lại khi ông được gọi ra hầu tòa. Dù “ba ngày đánh nhẹ, năm ngày đánh nặng” nhưng người phụ nữ vẫn “không nói lời nào”. Bộ dạng “ngồi lên thành ghế cố thu mình lại” tạo cho Phùng, cho Đẩu và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó buông bỏ. Tuy nhiên, trong một khoảnh khắc, “người phụ nữ bối rối và sợ hãi.” Có lẽ suốt thời gian qua cuộc sống của anh quá nặng nề, quá u ám.

Tình tiết người phụ nữ phục tùng để con trai không làm điều dại dột với cha mình, cũng như phục tùng quan tòa, thể hiện sự phục tùng, nhẫn nhịn và hy sinh nhiều hơn, “Mẹ có thể bắt con, con có thể vào tù. anh cũng làm đi, đừng bắt tôi phải rời đi.” Khi đi đến tận cùng nỗi đau, khi đã có con đường giải thoát, liệu người phụ nữ có còn im lặng và sẵn sàng gánh chịu đau khổ? Là nó để làm gì? Đó chẳng phải là vì sự hy sinh của người mẹ hay sao?

Tâm sự của một người phụ nữ về cuộc đời, chồng con khiến người khác không khỏi ngậm ngùi, ngưỡng mộ. Một người phụ nữ yêu chồng, thương chồng cho dù bị chồng bạo hành. Người phụ nữ yêu con, yêu chúng vô điều kiện, không đòi hỏi điều gì.

Khi ông nhắc đến chi tiết “vui nhất là được ngồi nhìn con ăn no”, có lẽ người đọc sẽ bật khóc. Các con chính là sức mạnh để anh sống sót, tồn tại và bền bỉ cho đến tận bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh vì con, một người mẹ chịu đựng tất cả chỉ vì miếng cơm, manh áo cho con. Một người mẹ tội nghiệp và bướng bỉnh, nhưng thương con vô bờ bến. Cuộc đời ông đầy đau thương và nước mắt nhưng có biết bao phẩm chất cao đẹp đáng quý.

Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn chỉ gọi nhân vật là “đàn bà”, có thể không chỉ là một phụ nữ đơn lẻ mà có thể là rất nhiều phụ nữ cùng trải qua hoàn cảnh tương tự trên bất kỳ bãi biển nào, vùng biển đẹp đến đâu. Nguyễn Minh Châu đã vẽ nên một bức chân dung khiến người đọc phải suy ngẫm, trăn trở về cuộc sống của bao người quanh ta. Và những hình ảnh mà nhiếp ảnh gia Phùng ghi lại cũng như những gì anh nghĩ về người phụ nữ này là một triết lý, một triết lý cho cái nhìn đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng nhợt nhạt và ướt át của người phụ nữ này có lẽ vẫn còn ám ảnh nhiều người.

Người phụ nữ là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dụng tâm để vẽ nên hình ảnh ấy.

Hình tượng người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã gửi đến người đọc nhiều thông điệp về cuộc sống và bản chất tốt đẹp của người phụ nữ.

9. Cảm nghĩ về người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa

Trong cuộc sống phức tạp này, sự thật đôi khi không phải là những gì ở trước mắt, mà sự thật là những gì ẩn chứa bên trong. Vì vậy, muốn có cái nhìn đúng đắn về nhân sinh thì phải nhìn vào bên trong, nhìn đúng bản chất, nhìn cuộc sống một cách đa dạng. Như nhân vật người đàn bà làng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Bề ngoài trông xấu xí, nhưng bên trong rất tốt.

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được viết năm 1983 và đến năm 1985 trong tập “Bến quê”, tác phẩm là kết quả của cuộc sống con người. Câu chuyện kể về một nhiếp ảnh gia đến vùng biên giới này để tìm ảnh cho một cuốn lịch. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm được một khung cảnh đắt giá cho bức “Trước mặt là bức tranh thủy mặc của danh họa xưa”. Nhưng ngay khi anh khám phá ra chân lý của sự hoàn hảo, khám phá ra một khoảnh khắc trong sáng của tâm hồn, anh bất ngờ phát hiện ra một cảnh bạo lực gia đình. Với sự xuất hiện của người phụ nữ làng chài đã gây ấn tượng mạnh với người độc và người nghe.

Người đàn bà làng chài, không nêu tên. Chỉ được gọi bằng đại từ “Bà, bà…” Người phụ nữ khoảng 40 tuổi, có thân hình được mệnh danh là người biển cao, nét thô kệch và khuôn mặt lấm tấm tàn nhang. Ngoại hình của người phụ nữ xấu xí và khó coi. Trước đó, người phụ nữ này sống trên đường phố. Con nhà khá giả nhưng xấu không ai lấy. Cô mang thai anh trong làng chài và có một cuộc sống hôn nhân với anh. Những người khác nhìn anh ta và nghĩ rằng đây là địa ngục bởi vì anh ta bị những cơn đau nhẹ trong ba ngày, năm ngày anh ta bị những cơn đau lớn. Vâng, cuộc sống của anh ấy thật buồn và đau khổ.Ông đau khổ về thể xác lẫn tinh thần, giống như hầu hết các gia đình làng chài khác, nhà ông đông con. Nhà nghèo. Thuyền nhỏ, thỉnh thoảng cả nhà phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Cuộc sống không thể khốn khổ hơn. Con người thường khổ về vật chất, nhưng no đủ về tinh thần cũng là hạnh phúc “nhà tranh hai trái tim vàng”. Nhưng anh không thể, đời sống tinh thần của anh càng khốn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí – chồng cô, một phần do cuộc sống khiến anh trở nên hung bạo.Bà dùng cách để nguôi cơn giận bằng cách đánh đập, rửa sạch cho bà và các con “Mày chết cho tao, mày chết cho tao” Bị người chồng tàn ác đánh đập, nhưng bà vẫn “với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục. , không khóc, không cố chống cự, không cố bỏ chạy. Trận đòn chỉ dừng lại khi cậu bé lao vào cứu mẹ và đánh bố” Hai mẹ con chỉ biết khóc. Người phụ nữ nói với tôi rằng khi cô ấy còn nhỏ, anh ta đã đánh cô ấy trên thuyền. Sau khi đứa trẻ lớn lên, anh ta yêu cầu cô đưa anh ta lên bờ và đánh anh ta.

Nhưng trong thực tế, có rất nhiều điều mà mọi người không biết. Khi vị thẩm phán đầu tiên đề nghị ly hôn, cô nhất quyết không chấp nhận và van xin đừng ly hôn, gánh mọi trách nhiệm và tội lỗi lên đầu. Tại sao? Vì anh là người hiểu rõ bản chất của cuộc sống, dù anh không biết chữ. Anh hiểu rằng tên của chiếc thuyền này cần một người đàn ông chèo. Phong và việc nuôi con của cô cũng rất thông cảm với người chồng từng là người rất yêu thương vợ nhưng chưa bao giờ đánh đập vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn khiến một người đàn ông ra tay đánh đập vợ con đã nhẫn nhịn cam chịu và nhận mọi trách nhiệm về mình.Thụ vì đẻ nhiều con mà sống khổ. Ngoài sự chịu khổ và chịu hy sinh, cuộc đời của ông còn có niềm vui, đó là khi con cháu được ăn no mặc ấm.

Người mẹ nào cũng vậy, thấy con mình hạnh phúc mẹ còn vui gấp trăm lần. Và đôi khi gia đình anh ấy cũng hòa thuận, thân thiện, vui vẻ, anh ấy cũng có lòng tự trọng cao. Anh xấu hổ khi người khác biết chuyện mình bị đánh, nhất là một người khiêm tốn. Người mà tôi yêu nhất “Con từ cách cư xử đến khuôn mặt đều giống bố mẹ đã làm khổ nó” Anh đã khóc khi nhắc đến người đàn ông đó. Anh ấy rất yêu các con của mình và anh ấy cũng mang đến những bài học quý giá cho các con trai và con gái của mình.

Nguyễn Minh Châu đã sử dụng thành công nghệ thuật đối lập. Một bên là người phụ nữ xấu xí, thiếu thẩm mỹ, một bên là vẻ ngoài u buồn, phẩm chất bên trong của một người đáng được trân trọng. Người phụ nữ được kể là người có tấm lòng sâu, biết xa, thương con, giàu đức hi sinh, vị tha, yêu chồng, thương con, hiểu lẽ ​​sống, sẵn sàng hi sinh vì hạnh phúc . , ấm áp cho chồng, cho con. Đây là bản chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Qua hình ảnh người phụ nữ trong truyện ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù bề ngoài không đẹp đẽ nhưng bên trong luôn chứa đựng phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ đến gia đình, hạnh phúc nhỏ bé của mình, sẵn sàng hy sinh tất cả để gìn giữ, chăm lo cho gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái. Những người phụ nữ vị tha cao thượng, Sự khác biệt của thôn nữ, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ kinh tế hơn.

Họ không còn phải chịu đựng những trận đòn của chồng. Họ yêu chồng con, họ cần một người đàn ông quán xuyến việc nhà, yêu gia đình, thương vợ con. Nhưng nếu người đàn ông đánh đập vợ con một cách thô bạo, họ sẵn sàng trình báo chính quyền để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Bên cạnh đó, vẫn có những người phụ nữ hiền lành, nhát gan, nhẫn nhục, sẵn sàng chịu đựng cảnh bị chồng đánh đập. Cố níu lấy thứ hạnh phúc chỉ có trong tưởng tượng, sống không đứng vững. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách nghĩ để hướng tới giải pháp cuối cùng là tìm kiếm hạnh phúc, cho mình một cơ hội đạt được hạnh phúc đích thực.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy một mặt đối lập, một vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ. Chúng ta cần nhìn vào cuộc sống và tâm hồn đa diện, tìm kiếm và khám phá bản chất bên trong, từ bên ngoài của người phụ nữ trong câu chuyện yêu thương chồng con với đức hy sinh cao cả.

10. Vẻ đẹp tiềm ẩn của cô hàng chài

Nguyễn Minh Châu được coi là cây bút mở đường ưu tú, tài năng của văn học Việt Nam những năm sau đổi mới. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn này phần lớn thuộc hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn, truyện ngắn của ông xứng đáng được xếp vào hàng những truyện ngắn hay nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại về trình độ nghệ thuật cũng như chất lượng tư tưởng.

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 thể hiện những khám phá quan trọng của nhà văn về cuộc sống và nghệ thuật trong thời đại mới. Thành công rực rỡ về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm này có thể kể đến ở việc xây dựng tình huống truyện vô cùng độc đáo.

Là một sự kiện đời sống đặc biệt được miêu tả trong tác phẩm, trong sự kiện đó, nhà văn sống lại một tình huống khác thường, phức tạp và bất ngờ trong mối quan hệ giữa các nhân vật.Trong sự kiện đó, tính cách nhân vật hiện rõ, tư tưởng của nhà văn cũng hiển nhiên . tiết lộ đầy đủ.

Đó là tình huống nhận thức vì nó nhằm bộc lộ nhận thức của nhà văn về cuộc sống và nghệ thuật thông qua cảm nhận của các nhân vật trong tác phẩm về vấn đề này. Phùng là một phóng viên ảnh. Theo yêu cầu của cấp trên, anh phải chụp một bức ảnh bình minh trên biển. Thế là Phùng trở lại vùng biển nơi anh đã chiến đấu năm xưa. Sau bao ngày tìm kiếm, Phùng đã tìm thấy cảnh đẹp để nhận ra rằng bản thân cái đẹp cũng là một giá trị đạo đức để có những phút giây tâm hồn thanh tịnh. Phụng gặp phải một sự việc hết sức dã man ngoài đời – đó là việc người đàn ông làng chài đánh đập, chửi mắng vợ dã man ngay trên bãi cát – nơi Phùng say sưa theo cảm hứng. Sáng Tạo Nghệ Thuật.Sự việc này khiến Phùng bàng hoàng, đau xót khi nhận ra sự ngu xuẩn, sự thật trần trụi vẫn tồn tại trong cuộc sống bộn bề quanh họ. Khi lên tòa án huyện, nghe câu chuyện của người đàn bà ấy, Phùng có thêm những khám phá quan trọng về bản chất con người, về sự phức tạp của cuộc sống, để anh có thêm những trăn trở về nghệ thuật, về cuộc đời. mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

Sau bao ngày tìm kiếm, lựa chọn và nản lòng, cuối cùng Phùng chợt nhìn thấy một cảnh đẹp: bình minh nơi cửa biển với không gian phóng khoáng, thơ mộng, có sương mai hồng hồng. , với con thuyền với những vó và lưới vẫn còn nhỏ giọt nước. Sự hài hòa giữa hình ảnh thiên nhiên và hình ảnh cuộc sống ở những thời điểm nhất định tạo nên vẻ đẹp lý tưởng của bức tranh và mang đến cho Phùng niềm hạnh phúc bất ngờ khi thưởng thức. Đó cũng là nguồn cảm hứng sáng tạo của Phụng: hễ tìm được khoảnh khắc “trời cho” là Phụng bấm máy liên tục cho đến gần hết phim.Đó cũng là cơ sở để ông suy nghĩ: cái đẹp không chỉ đáp ứng nhu cầu thưởng thức, kích thích óc sáng tạo mà còn có khả năng thanh lọc để mang lại những phút giây hồn nhiên cho con người. Chuyện xảy ra trên bãi cát: ngay chỗ Phùng đang say sưa ngắm cảnh thiên nhiên và thỏa sức sáng tạo thì điều bất ngờ xảy ra – một ông già thô lỗ và xấu xí đã đánh đập và chửi bới người phụ nữ mà ông ta là vợ mình. Sự việc này khiến Phùng cảm thấy sốc không chỉ bởi anh vừa trải qua giây phút thăng hoa trong niềm đam mê sáng tạo, mà còn bởi đây là một sự phi lý, bất công mà anh không thể tin được vẫn tồn tại trong đời sống hiện nay – đó là bạo lực gia đình. .Phùng đã từng trải qua chiến tranh, từng cầm súng bảo vệ bình yên và hạnh phúc của nhân dân nên không thể chấp nhận cách đối xử tàn nhẫn, bạc bẽo của ông lão. Đó là lý do khiến Phụng không chỉ bàng hoàng, tức giận mà còn có hành động bột phát: ném máy ảnh, cách làm của các nhà báo-nghệ sĩ để tấn công những người đàn ông khác như một cách bênh vực những người phụ nữ yếu đuối, tội nghiệp. Phản ứng trong cả tình cảm và hành động của Phùng lúc đó cho thấy anh không chỉ là một nghệ sĩ quan tâm đến cái đẹp mà còn là một người có tâm và có trách nhiệm.Cũng chính tấm lòng và trách nhiệm ấy khiến anh dù đã hoàn thành sứ mệnh của nhà báo vẫn quyết định ở lại biển thêm vài ngày để giải quyết chuyện với chị Dậu.

Câu chuyện ở cả hai phiên tòa huyện Phùng và huyện Dậu phải chuyển từ bàng hoàng này sang bàng hoàng khác về người phụ nữ – một nạn nhân khác của bạo lực gia đình. Mang tâm thế của một người đàn ông tự cho mình là nhà từ thiện, ra tay giúp đỡ, che chở, bênh vực người phụ nữ đáng thương giúp cô thoát khỏi bi kịch của cuộc đời, Phùng và Đẩu đã ra đi. Cũng chính người phụ nữ này tỏ ra ngạc nhiên khi người phụ nữ không nghe lời khuyên, từ chối sự giúp đỡ và khẳng định mình không phải bỏ chồng. Sự việc xảy ra quá đột ngột khiến Phùng bàng hoàng, bối rối và ngỡ ngàng vì trong phòng lộng gió biển đến mức anh có cảm giác như bị hút hết không khí đến chết đuối.Phùng và Đẩu càng ngạc nhiên hơn khi nghe người đàn bà giải bày, giải thích: người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, nhún vai thái quá trước cách xưng hô “con – mày” một cách đột ngột, sắc bén bất ngờ trong cuộc trao đổi xưng hô cấp trên của mình. chị – chú”. Cách xử lý này khiến Phụng và Dậu cảm thấy khó chịu vì Dậu là chánh án cấp huyện còn Phụng là nhân chứng, ân nhân khi đứng ra bảo vệ những người phụ nữ khác. Nhưng cảm nhận sâu sắc nhất, sâu sắc nhất mà Phùng có được từ câu chuyện này chính là từ sự khám phá mới của anh về tính cách người phụ nữ – đó là bản chất thật ẩn sau bề ngoài. kiên nhẫn, cam chịu và hơi ủ rũ.Hóa ra, người phụ nữ ấy hoàn toàn không phải như những gì Phùng và Đẩu nhìn thấy: đằng sau vẻ ngoài cam chịu, nhẫn nhịn là sự thấu hiểu, tha thứ, yêu thương sâu sắc – những phẩm chất chỉ có ở người từng trải và hiểu được ý nghĩa thực sự của cuộc sống. mạng sống. Mẹ nhẫn nhịn vì thương con, mẹ đau khổ vì tấm lòng bao dung, thứ tha, vì hiểu nguyên nhân dẫn đến hành động tàn ác, bạo lực của chồng và hơn hết là vì mẹ có đức hy sinh vô bờ bến. Tất cả nhưng điều này khiến cả Phùng và Đẩu không thể tiếp tục nhìn cô với ánh mắt thương hại.Một nhóm họa sĩ đam mê, tận tụy hàng tháng trời tìm tòi, sáng tạo và cho ra đời vô số tác phẩm quý giá, nhưng khi người đứng đầu bộ phận chọn sáng tác lịch tranh ảnh nghệ thuật về thuyền và biển, vẫn thấy những tác phẩm hiện có là chưa đủ để tạo nên một bộ ảnh hoàn chỉnh. Chính vì thế chuyến đi biển của Phụng là để ghi lại cảnh biển buổi sáng mù sương. Vì vậy, có thể thấy rằng, người nghệ sĩ dù có nỗ lực đến đâu, có đam mê tìm tòi, sáng tạo đến đâu thì ngần ấy công sức, nỗ lực, đam mê và nhiệt huyết cũng không thể đạt được. đáp ứng nhu cầu cuộc sống.Trong bức ảnh mà Phụng mang về, phông nền chỉ là đen trắng với những đường nét như một bức tranh thủy mặc cổ xưa, bởi anh đã có một trải nghiệm thực tế, trong những bức ảnh đen trắng luôn nhìn thấy đóa hồng của sương sớm. Và mặc dù trong bức tranh chỉ có một bức tranh, không có bóng người, nhưng khi nhìn kỹ, Phùng vẫn thấy bóng dáng cao lớn của một người phụ nữ bước ra khỏi thuyền lẫn vào đám đông. Từ nghịch lý này, có thể thấy rằng chỉ có trải nghiệm và gắn bó với cuộc sống, người nghệ sĩ mới có thể khám phá ra những điều mà mắt thường không thể nhận ra.

Nếu hành động này không được ngăn chặn thì bi kịch sẽ chồng chất, như vậy bi kịch đã rất nặng nề và tạo áp lực lên cuộc sống của gia đình. Với hành động này, Phác vốn là đứa con thương mẹ, trở thành chỗ dựa, an ủi cho mẹ, lại trở thành nhát dao đâm vào tim mẹ cho đến khi bà rơi nước mắt. Trận đòn roi của chồng khiến chị đau đớn về thể xác, hành động của đứa con khiến chị đau đớn về tinh thần vì đã phá vỡ điều mà chị cố gắng gìn giữ trong gia đình: Đó chính là sự bình yên trong tâm hồn của những đứa con.Lòng nhân đạo, tinh thần trách nhiệm khiến cả Phùng và Đẩu đều cố gắng can thiệp để giúp đỡ, bênh vực, bảo vệ người phụ nữ bất hạnh nhưng do cách giải quyết không phù hợp nên đành bất lực trước sự giúp đỡ của mình. : Để bảo vệ người phụ nữ đáng thương, Phùng lao vào đánh đập gã đàn ông bạc bẽo và Đẩu khuyên người phụ nữ hãy buông tha cho người chồng tàn ác của mình. Phùng và Đẩu làm việc này bằng lương tâm, nhiệt tình và sự cảm thông chân thành. Nhưng những gì họ làm không thực sự giúp ích cho những người phụ nữ khác. Vì chỉ nhìn câu chuyện của người phụ nữ dưới góc nhìn của người ngoài cuộc nên họ không thể hiểu được nội dung của nó.Khi ra tòa án huyện, người phụ nữ này đã khẳng định rõ ràng: “Mày có lòng tốt nhưng mày không phải là người làm ăn nên không hiểu việc làm ăn của những người lao động vất vả”, “mày ở đâu? Mày có phải là đàn bà đâu mà mày .. em có hiểu nỗi khổ của đàn bà trên thuyền không có đàn ông không?” Sự giúp đỡ của Phùng và Đẩu không có kết quả vì họ không thể giúp được điều mà người phụ nữ cần (giải thoát khỏi cảnh bần cùng, nghèo khó – nguyên nhân chính dẫn đến bi kịch của gia đình cô). Giải pháp thực sự thiết thực duy nhất đối với anh lúc này là giúp anh thoát nghèo – điều vượt quá khả năng và quyền hạn của Phùng và Đẩu.

Những điều bất ngờ và nghịch lý mà Phùng chứng kiến ​​khiến anh không thể tiếp tục nhìn đời bằng cái nhìn đơn giản. Nó buộc anh phải suy nghĩ để nhận ra tất cả. Ở biến cố bất ngờ đầu tiên mà Phùng gặp phải trên hành trình ra biển, anh nhận ra rằng cuộc đời không chỉ có cái đẹp mà còn có những sự thật phũ phàng, nhưng cũng có những mối quan hệ phức tạp. Chứng kiến ​​cảnh người chồng đánh vợ trên bãi cát, Phùng nhận ra rằng đằng sau vẻ đẹp của bức tranh thủy mặc, đằng sau sắc hồng và sắc hồng của sương sớm trong một không gian tưởng chừng yên bình tĩnh lặng là một cuộc sống khốc liệt với tất cả sự ngu ngốc của nó, sự tàn ác của nó.Tưởng rằng lúc đó Phùng đã chạm đến tận cùng chân lý của cuộc đời, thì trong cuộc trò chuyện với người phụ nữ ở tòa án huyện, Phùng mới nhận ra rằng: Hóa ra cuộc đời không như vẻ ngoài của nó . Nếu chúng ta chỉ nhìn bằng con mắt của người ngoài cuộc thì chúng ta chỉ thấy cái biểu hiện bên ngoài của sự vật, nhưng cái bên ngoài không phải lúc nào cũng phù hợp với cái bên trong. Người phụ nữ với tư cách là người trong cuộc đã cho Phùng một góc nhìn khác, một góc nhìn khác để hiểu hơn về cuộc đời. Qua lời kể của người đàn bà, Phùng đã hiểu nguyên nhân dẫn đến sự tàn ác dã man của ông lão, nguyên nhân dẫn đến bi kịch gia đình và điều quan trọng nhất mà Phùng nhận ra bản chất thật của ông lão.Hóa ra, sự từ chức của anh không phải vì đen tối mà xuất phát từ lòng vị tha. Người phụ nữ đồng ý để chồng đánh vì hiểu rằng anh cần được giải thoát sau những nỗi đau của cuộc sống thường ngày. Bà không bỏ chồng vì bà hiểu rằng trên con thuyền ra khơi nhất định phải có người đàn ông làm chỗ dựa bởi biển không phải lúc nào cũng lặng sóng mà còn có bão tố.Chị đòi chồng đưa lên bờ để đánh chị vì muốn cứu các con chị khỏi đau lòng… Như vậy, cuộc trò chuyện với người phụ nữ không chỉ giúp Phùng nhận ra con người khác ở người phụ nữ này mà còn khiến chị học được một điều như thế nào. cách nhìn người, cách nhìn sự vật: chỉ có thể nhìn người và đời một cách kỹ càng khi biến mình thành người trong cuộc, khi không chỉ biết người mà còn biết cả đời. nên dùng lý trí để phán xét nhưng cũng nên dùng tấm lòng vị tha để cảm thông. Điều này không mới nhưng lại rất quan trọng, nhất là khi cuộc sống hiện nay luôn chứa đựng những mâu thuẫn phức tạp, những điều khó hiểu,

Thông qua tình huống truyện, Nguyễn Minh Châu giúp ta nhận ra sự phức tạp trong đời sống con người với những hiện tượng không dễ đánh giá, những mối quan hệ không dễ cắt nghĩa, cắt nghĩa. Đối diện với cuộc đời như vậy, người nghệ sĩ phải có một gương mặt sắc sảo, nhìn xuyên thấu, bởi chỉ có cái nhìn như vậy mới phát hiện được những khiếm khuyết, những cái xấu cần loại bỏ trong cuộc sống của con người và những vẻ đẹp ẩn giấu trong vẻ bề ngoài thô kệch. Sự khám phá vẻ đẹp con người trong tác phẩm đã đem đến cho người đọc cảm giác ấm áp, niềm tin vào con người sau những đắng cay, chông gai của cuộc đời.

Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Minh Châu đã chọn người kể trong truyện ngắn này là người nghệ sĩ bởi sự nhạy cảm, tầm nhìn khám phá và tinh thần trách nhiệm với cuộc đời của người nghệ sĩ Phùng. giúp Nguyễn Minh Châu gửi gắm quan niệm, sự cần thiết của nghệ thuật: Nghệ thuật phải hướng tới cái đẹp, nhưng nghệ thuật không thể chỉ là con thuyền ngoài xa. Nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó xuất phát từ cuộc sống, là tiếng nói của cuộc sống để trở thành một phần của cuộc sống này.

11. Phân tích về nữ ngư dân tại tòa án khu vực

Nếu bạn muốn biết ý nghĩa của Hòa bình, hãy hỏi một chiến binh vừa trở về từ trận chiến. Muốn biết thời hạn, hãy lắng nghe tiếng mong ngóng bình minh của một người đang mắc bệnh hiểm nghèo. Vậy chúng ta muốn cảm nhận tầm quan trọng của một nghệ sĩ như thế nào? Có lẽ chỉ cần nhìn vào công việc của họ. Nguyễn Minh Châu – nhà văn mở đường cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, cùng với hình tượng người hàng chài ở quan huyện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy rõ tình cảm thiêng liêng của gia đình, tình thân. tình yêu của một người mẹ ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của thời kháng chiến chống Mỹ. Nhà văn Nguyễn Khải từng đánh giá: “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy văn xuôi Việt Nam và cũng là người lót đường xuất sắc cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Đúng như vậy, với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài nước” đậm phong cách tự sự-triết lí, đây là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng tiếp cận cuộc sống từ góc nhìn thế sự của tác giả ở thời kỳ đầu. công việc thứ hai.

Truyện ngắn ra đời trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình đổi mới, đời sống kinh tế còn nhiều mặt trái và tồn tại tạo cảm giác bất an. Ban đầu, truyện được in trong tập Bến quê (1985), sau được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tập truyện ngắn in năm 1987. Trong tác phẩm này, hình tượng người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm của câu chuyện. Nhân vật này được thể hiện đặc biệt ở cả việc phát hiện ra chiếc thuyền ngoài xa của Phùng và ở chính tòa án huyện khi ông kể về cuộc đời mình.

Sau nhiều đoạn miêu tả, hiện lên hình ảnh người đàn bà đánh cá với “thân hình đặc trưng của người phụ nữ biển, cao, nét thô. Khuôn mặt lấm tấm tàn nhang, vẻ mệt mỏi sau một đêm thức đêm kéo lưới, xanh xao, hình như còn ngái ngủ”. Chúng tôi nghĩ rằng chị là một người lao động cần cù, rất cần cù… nhưng cái nghèo vẫn bủa vây gia đình anh, cái nghèo còn thể hiện qua “chiếc áo bạc màu, nửa thân dưới ướt sũng” của anh, từ cách cư xử đến cách đi đứng của anh. “kiếm một góc ngồi” càng khiến anh chàng trở nên đáng thương hơn.

Việc ông ở lại quan huyện là câu chuyện cuộc đời đầy bí ẩn và mâu thuẫn của một lão chài nghèo cả đời sống trong cảnh nghèo khó. Theo lời mời của ông Dậu – một thẩm phán ở tòa án huyện, người đàn bà hàng cá đã đến tòa án huyện. Người đàn bà kiên quyết từ chối lời đề nghị và sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng. Anh ấy đang đau. chấp nhận đánh đổi bằng mọi giá không được bỏ người chồng tàn ác, cho dù “anh có thể bắt tôi, tôi có thể bỏ tù anh”. Bởi hơn ai hết, anh hiểu con trai mình cần một gia đình có đủ cả cha và mẹ. Bởi: “Rớt như nón không quai/ Như thuyền không lái, như trai không chồng”.Tại đây, cô kể về cuộc đời mình và gián tiếp lý giải vì sao cô quyết tâm không bỏ chồng.

Đầu tiên, người chồng là chỗ dựa quan trọng duy nhất trong cuộc đời ngư dân giống như người cha. Nhất là khi biển động, giông bão, gió lớn. Thứ hai, anh cần và không thể xa chị, vì anh còn phải cùng nhau nuôi con nhỏ. Và cuối cùng, những giây phút hạnh phúc, hòa thuận của gia đình trên thuyền chính là điều khiến chị muốn bám lấy chồng.

Nếu lúc đầu đến với vành, ngư dân còn e ngại, rụt rè, một lạy, hai lạy. Nhưng sau khi nghe Chánh án dặn dò, anh mạnh dạn hơn, chủ động hơn. “Anh không phải là dân kinh doanh (…) nên anh không biết công việc của những người lao động vất vả, cực khổ (…) bởi anh không phải là phụ nữ, anh có bao giờ biết rằng nó khó khăn như thế nào đối với đàn bà trên thuyền không đàn ông” – cô lập tức bác bỏ đề nghị của thẩm phán Đẩu và phóng viên Phùng. Lần này, ông không còn gọi “con – quý tòa” mà tự gọi mình là “chị” và gọi là “chú” . thay đổi là do anh cảm nhận được thiện ý của hai người họ hay chỉ là cảm thông cho sự bồng bột, ngây thơ,

Cô hàng chài tuy mù chữ nhưng không hề u tối, ngược lại hiểu chân lý cuộc đời, hiểu sâu sắc. Cô hiểu ý tốt của quan tòa Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên cô bỏ người chồng tàn nhẫn, bạc bẽo. Nhưng càng ngày anh càng thấu hiểu cuộc sống trên sông nước. Cô thoát ra khỏi cuộc sống khó khăn và sống với một chân lý giản dị nhưng mặn mà giữa đời thường: “Đàn bà đánh cá chúng ta cần một người đàn ông chèo khi gió nổi”. Cuộc sống như vậy, cần một người đàn ông để chống chọi, để làm chỗ dựa, cho dù đó là người chồng tàn nhẫn.Cô cũng hiểu rằng làm mẹ là một điều đáng tự hào: “Trời sinh ra phụ nữ là để sinh ra, rồi nuôi nấng cho đến khi khôn lớn, rồi mẹ phải khổ”.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, ta có thể khẳng định tài năng của Nguyễn Minh Châu trong việc khắc họa nhân vật người đàn bà hàng chài ở quan huyện. Chỉ qua hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, người đọc như được chứng kiến ​​cuộc đời của bao người phụ nữ Việt Nam ở mọi lứa tuổi. Những tấm lưng trắng bệch, hay ánh mắt cam chịu, nụ cười hạnh phúc khi lặng lẽ nhìn những đứa con của mình, chắc hẳn sẽ đọng lại trong tâm trí người đọc. Qua đó, nhà văn gửi gắm sự đồng cảm, xót thương cho hoàn cảnh của những người phụ nữ bị đói khổ, đày đọa. Đồng thời, nhà văn cũng thể hiện niềm tự hào trân trọng vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *